bài viết
Vietnamese ARTICLES
12/10/2012 ĐỨC KITÔ, TẶNG PHẨM THẦN LINHTrích đoạn TẶNG PHẨM THẦN LINH Bí Tích Thánh Thể Cho Con Người Mọi Thời Đại ĐGM Phaolô Bùi Văn Đọc TÌNH YÊU TẠO DỰNG HƯỚNG TỚI TÌNH YÊU CỨU ĐỘ Trong bí tích Thánh Thể, chúng ta lãnh nhận sự sống của Chúa Kitô là chính Chúa Kitô, là bản thân Người. Sự sống mà chúng ta lãnh nhận ở đây không chỉ là sự sống thể lý mà chúng ta hằng nuôi dưỡng bằng lương thực, cũng không chỉ là sự sống tự nhiên mà Thiên Chúa ban cho chúng ta khi dựng nên chúng ta. Tạo Dựng mới là bước khởi đầu Tình Yêu của Thiên Chúa. Dĩ nhiên bước khởi đầu này vô cùng lớn lao, vì Thiên Chúa đã làm cho chúng ta từ không ra có. Nhưng điều Người ban cho chúng ta, sự sống tự nhiên nơi chúng ta, sự hiện hữu của chúng ta, vẫn là cái gì bên ngoài Thiên Chúa, chưa phải là chính mình Người. Tuy vậy sự sống tự nhiên nơi chúng ta đã là dấu chỉ của một tình yêu vô hạn, chiến thắng hư vô. Có yêu, mới có cho. Thiên Chúa yêu chúng ta, mới ban cho chúng ta sự sống. Người yêu ta, Người mớùi dựng nên ta.
Tình Yêu Tạo Dựng ấy hướng tới Tình Yêu Cứu độ : Tình Yêu muốn điều tốt nhất cho người mình yêu; Tình Yêu cho đi điều mình quý nhất. Trong tin mừng Gioan, chính Đức Giêsu đã khẳng định : “Thiên Chúa đã yêu mến thế gian như thế (đó), đến nỗi đã thí ban Người Con Một, ngõ hầu phàm ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi, nhưng được có sự sống đời đời” (Ga 3,16). Thiên Chúa ban cho chúng ta Đức Giêsu Kitô. Và Người Con ấy là sự sống cho chúng ta. Hay có thể nói theo kiểu thư 1 Ga : “Thiên Chúa đã ban cho ta sự sống đời đời, và sự sống ấy là ở trong Con của Người. Ai có Con thì có sự sống ; ai không có Con Thiên Chúa thì không có sự sống”(5, 11,12). Đức Kitô là sự sống mà Thiên Chúa ban cho nhân loại, là Đấng được Thiên Chúa sai xuống thế gian để mang đến sự sống đời đời cho thế gian. Người là Đấng từ trời xuống thế do ý muốn của Chúa Cha, vì loài người chúng ta, và để cứu rỗi chúng ta. Chính vì thế mà Người tự ví mình như lương thực, như bánh bởi trời (Ga 6,41), bánh hằng sống (Ga 6,35). Bản thân Người là Bánh Sự Sống bởi trời xuống (Ga 6,51). Ai ăn bánh ấy, sẽ được sống đời đờøi. Bánh ấy do Chúa Cha ban (Ga 6,32), nhưng cũng do chính Chúa Kitô ban, vì bánh ấy là Thân mình Người tự hiến vì sự sống của thế gian (Ga 6,51). TÌNH YÊU THẲM SÂU VÀ KHÔN DÒ CỦA THIÊN CHÚA Chúng ta chỉ có thể hiểu Tình Yêu của Chúa Cha, Đấng ban cho chúng ta Người Con Một, hiểu Tình Yêu của Chúa Kitô, Đấng tự hiến mình cho chúng ta, khi chúng ta hiểu tương quan giữa Chúa Kitô và Chúa Cha, khi chúng ta được đưa vào Tình Yêu sâu thẳm của Thiên Chúa Ba Ngôi. Tình Yêu ấy là Sự Sống, là Hạnh Phúc của cả Ba Ngôi và của từng Ngôi Vị. Chúa Cha sinh ra Chúa Con, và tình phụ tử, tình Cha làm cho Chúa Con hạnh phúc. Đáp lại, chính tình Con thảo của Chúa Kitô làm cho Chúa Cha hạnh phúc. Nếu Thiên Đàng là Hạnh Phúc, thì Chúa Cha là Thiên Đàng của Chúa Con và Chúa Con là Thiên Đàng của Chúa Cha. Chúa Cha là Sự Sống, là Lẽ Sống của Chúa Con, và Chúa Con là Lẽ Sống, là Sự Sống của Chúa Cha. Cha ban Con Một cho chúng ta có nghĩa là hy sinh Thiên Đàng, hy sinh Niềm Vui, hy sinh Hạnh Phúc cho chúng ta. Khi Chúa Cha ban Con Một Người cho chúng ta, Người không bao giờ hối tiếc, Người cho đi và không bao giờ lấy lại : Con Một của Người mãi mãi là người như chúng ta và ởû giữa chúng ta. Ngay cả ngày hôm nay, dù chúng ta không thấy Ngài. Chúa Kitô, vì yêu Chúa Cha mà chấp nhận trở nên hồng ân trong tay Chúa Cha. Người đồng ý trở nên Tặng Phẩm Chúa Cha ban cho nhân loại. Người là Hồng Ân lớn nhất, nguồn suối mọi hồng ân. Tác giả Tin Mừng Gioan nhiều lần nhấn mạnh sự tự do của Đức Kitô : “Không ai cất mạng sống Ta được, nhưng chính Ta tự mình thí mạng sống Ta ; Ta có quyền thí mạng sống Ta…” (10,18) “Không có lòng mến nào lớn hơn là thí mạng sống mình vì bạn hữu” (15,13) Chúa Kitô đã tự hiến mình cho chúng ta vì yêu chúng ta và yêu Chúa Cha. Nơi Chúa Kitô, hai tình yêu này là một. Người yêu Chúa Cha như thế nào, Người yêu chúng ta như vậy. Vĩ đại dường bao tình yêu của Người ! Chúng ta nên lưu ý thêm rằng khi Thiên Chúa ban Đức Giêsu Kitô cho chúng ta, Người cho đi chính bản thân mình, vì Đức Kitô là bản thể, là bản thân, là sự sống của Người. Xét về phương diện này, Lịch sử cứu độ là lịch sử hồng ân và là lịch sử tình yêu tự hiến của Thiên Chúa (autodonation de Dieu). Cao điểm của lịch sử này là thập giá Đức Kitô. Thập giá là tột đỉnh hy sinh của Thiên Chúa. Thập giá biểu lộ tình yêu điên rồ của chính Thiên Chúa. Yêu đến liều mình, yêu và chấp nhận trả giá cho tình yêu, dù giá ấy là “bị từ khước”. Dụ ngôn những người tá điền gian ác trong Tin Mừng Matthêô 21,33-43 một phần nào biểu lộ sự liều mạng của Thiên Chúa, khi sai Con Một của Người đến trần gian : “Kẻ thừa tự đó, mau ta giết quách nó đi… chúng túm lấy người con, lôi ra bên ngoài vườn nho mà giết đi” (Mt 21,38-39). Thập giá cũng là tột đỉnh hy sinh của Chúa Kitô, Đấng đã hạ mình vâng phục Chúa Cha, vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá (Ph 2,7). Thập giá là cao điểm tình yêu tự hiến của Chúa Kitô (Ga 15,13). Thập giá biểu lộ sự liều mình của Chúa Kitô, giống như sự liều mình của Chúa Cha. Không phải vô tình mà các tác giả Tân Ước thường dùng chữ “thí ban” để nói tới cái chết cứu chuộc của Chúa Kitô (Mc 10,45 ; Mt 20,28 ; Lc 22,19 ; 1Tm 2,6 ; Tt 2,14). Quả thật đây là một sự “thí mạng” : “Này là Mình Ta thí ban vì các ngươi” (Lc 22,19). Thí mạng không là một sự bố thí theo nghĩa coi thường hay khinh rẻ những người mình ban ơn. Thí mạng cũng không phải vì mạng sống không có giá trị (thí mạng cùi). Mạng sống của Đức Giêsu thực sự là vô giá đối với Thiên Chúa và đối với nhân loại chúng ta. Cho nên thí mạng ở đây biểu lộ một tình yêu đạt đến tột đỉnh, một tình yêu sẵn sàng mất tất cả, không còn lại gì cả, bản thân cũng không còn : vì yêu, mà sẵn sàng trở thành hư vô. Còn một từ ngữ khác mà các tác giả Tân Ước thích dùng, là chữ “Phó nộp” (Rm 8,32 ; Ga 1,4 ; 2,20 ; Ep 5,2-25). “Thiên Chúa đã không tha cho chính Con của Người, nhưng đã phó nộp Ngài vì chúng ta hết thảy” (Rm 8,32). “Này là Mình Ta vì cáùc ngươi” (1 Cr 11,24). Chữ phó nộp biểu lộ một khía cạnh khác của Tình Yêu tột cùng. Vì yêu chúng ta mà Chúa Cha không dám giữ Con của Người lại, hay nói theo kiểu Phaolô, “không tha Con Một của Người, nhưng đã phó nộp Ngài vì chúng ta hết thảy” (Rm 8,32). Tình yêu làm cho Chúa Cha trở nên “yếu đuối”, và đem nộp Con mình để cứu chuộc chúng ta. Tình yêu làm cho Chúa Giêsu “yếu đuối”, để cho mình “bị nộp”, hay “tự phó nộp mình” làm giá cứùu chuộc nhân loại. Khi suy nghĩ về Tình Yêu Cứu Độ này của Thiên Chúa, chúng ta phải thốt lên như Phaolô : “Ôi ! Thẳm sâu thay sự giàu có, khôn ngoan, thượng trí của Thiên Chúa ! Những phán quyết của Người vô phương dò thấu, đường lối của Người không kề dõi theo” (Rm 11,33). Tình Yêu thẳm sâu và khôn dò của Thiên Chúa biểu lộ nơi thập giá Đức Kitô là Tình Yêu vượt thời gian. Tình Yêu tự hiến của Đức Kitô biểu lộ bằng cái chết cũng vượt thời gian. Chúa Kitô chỉ tựï hiến một lần, tự hiến trọn vẹn thay cho mọi lần. Tính duy nhất của Hy tế Tình Yêu ấy vượt thời gian. Chúa Giêsu đã biểu lộ điều này trong Bữa Tiệc Ly. Hy Tế Thập Giá của Người sẽ vượt thời gian. Người sẽ luôn ở trong trạng thái tự hiến. Người là Chiên chịu sát tế, mà vẫn đứng (Kh 5,6). ĐÓN NHẬN TÌNH YÊU TỰ HIẾN VƯỢT THỜI GIAN Ngày hôm nay chúng ta đón nhận sự tự hiến ấy trong bí tích Thánh Thể. Chúng ta lãnh nhận Thân Mình bị nộp vì chúng ta, lãnh nhận Máu Tân Ước vĩnh cửu đổ ra cho chúng ta. Chúng ta loan truyền việc Chúa chịu chết. Chúng ta tuyên xưng việc Chúa sống lại. Chúa Kitô ban sự sống của Người cho chúng ta qua cái chết (trên thập giá cũng như trong bí tích Thánh Thể). Luther đã phủ nhận tính hy tế của bí tích Thánh Thể, có lẽ vì ông không thấy được tương quan mật thiết giữa hy tế Thập Giá và mầu nhiệm Thánh Thể. Ông hiểu từ ngữ “chỉ một lần” (hapax) theo đơn nghĩa (univoque), thuần túy trên bình diện lịch sử. Ông không lưu ý khía cạnh vượt thời gian và không gian của hy tế thập giá. Có lẽ lý do khác nữa là, thời bấy giờ, người ta có khuynh hướng trình bày Thánh Lễ như tái diễn “thảm kịch Núi Sọ”. Đối với ông, dù sao tái diễn cũng chỉ là tái diễn, chứ không là hy tế thực. Như đã nói, thập giá là “Cao Điểm” của lịch sử tình yêu tự hiến của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Cử hành mầu nhiệm Thánh Thể là đón nhận “Cao Điểm ấy”, là nhớ tới Ngài, nhớ tới Tình Yêu tự hiến của Ngài. Nhớ tới Đức Giêsu Kitô như lời Ngài căn dặn, là đón nhận tình yêu tự hiến trên thập giá vào trong hiện tại “ở đây và bây giờ” (hic et nunc). Cử hành Thánh Thể là “đón nhận” Chúa Kitô chết trên thập giá như Hồng Ân Vô Giá của Chúa Cha, đón nhận cái chết cứu chuộc, cái chết mang lại sự sống, hay nói đúng hơn là đón nhận Đấng Hy Sinh chịu chết vì chúng ta để mang lại Sự Sống cho chúng ta. Chúng ta đón nhận ơn cứu độ, ơn tha tội trong mầu nhiệm Thánh Thể. Chính vì thế mà cử hành mầu nhiệm Thánh Thể cũng là cử hành nghi lễ Tạ Ơn. Chúng ta tạ ơn Cha đã ban ơn cứu độ cho chúng ta, ban Chúa Kitô cho chúng ta, và trong Chúa Kitô đã tự hiến mình cho chúng ta. Chúng ta không thể nào tạ ơn Cha cách xứng đáng, ngoại trừ bằng cách dâng lên cho Cha chính Chúa Kitô mà Cha đã ban cho chúng ta, dâng “Bánh Hằng Sống” và “Chén Cứu Độ” lên cho Cha (Kinh nguyện Thánh Thể II). Cử hành Thánh Thể quả thật là “dâng lễ vật” làm đẹp lòng Thiên Chúa, làm vinh danh Người. THÂN THỂ CHÚA KITÔ Trong mầu nhiệm Thánh Thể, Thiên Chúa ban Đức Kitô cho chúng ta, Đức Kitô tự hiến thân mình cho chúng ta. Người mời gọi chúng ta : “Hãy lãnh nhận mà ăn! Này là Mình Ta!”. Người tự hiến bản thân, Người ban cho ta thân mình của Người làm của ăn. Từ ngữ “Thánh Thể” trong tiếng Việt diễn tả chính xác mầu nhiệm chúng ta cử hành, nói lên trọng tâm của mầu nhiệm: Thân Thể Chí Thánh của Chúa Kitô dưới dạng bánh và rượu. Thân Thể ấy là gì ? phải chăng chỉ là thân xác Đức Kitô, không có liên hệ gì tới linh hồn và thần tính của Người ? Chắc chắn là không. Giáo Hội luôn luôn hiểu Mình Thánh là chính Chúa Kitô dưới dạng bánh. Chính vì thế mà Giáo Hội định tín rằng : dù chỉ một miếng bánh nhỏ, khi đã được truyền phép, vẫn chứa đựng cả thân xác, linh hồn và thần tính của Đức Kitô. Chúng ta có Đức Kitô nguyên vẹn và cụ thể. Trong cả bốn bài tường thuật của Matthêô, Marcô, Luca và Phaolô, từ ngữ được sử dụng là sôma, có thể dịch là thân xác, hoặc là “thân thể”. Có lẽ Chúa Giêsu đã dùng một chữ aram tương đương với chữ basar trong tiếng do-thái. Basar có nghĩa là “con người hữu hình”, cụ thể với thân xác. Basar nhấn mạnh khía cạnh xác thể nơi con người, chứ không chỉ là một phần của con người là phần xác. Nếu muốn dùng triết học hiện đại để mà nói, thì chúng ta bảo rằng con người là thân xác, chứ không phải chỉ có thân xác. Thân xác đồng hóa với con người, là thân mình con người. Tiếng Việt, khi dịch “Này là Mình ta”, diễn tả rất đúng. Chữ Mình vừa chỉ thân xác, vừa chỉ “chủ thể”. Hay nói một cách mới mẻ hơn, đó là “chủ thể thân xác”, là bản thân. Dù sao, khi nói tới sôma hay basar, rõ ràng là phải nhấn mạnh mầu nhiệm “Nhập Thể” của Đức Kitô. Thân xác làm cho con người nên một cá vị cụ thể, thấy được, nhận ra được, thậm chí còn “kiểm chứng” được. Có lẽ vì lý do này mà tác giả Tin Mừng Gioan dùng chữ sarx thay chữ sôma trong diễn từ về bánh Hằng Sống : “Bánh Ta sẽ ban, ấy là thịt mình Ta vì sự sống thế gian” (Ga 6,51). Tác giả cố ý dùng và nhấn mạnh chữ sarx. Chữ sarx có nghĩa là “thịt”. Chữ thịt ở đây hiểu theo nghĩa “đen”, chính vì thế người Do-thái mới thắc mắc và xôn xao : “Làm sao ông có thể cho ta ăn thịt mình được ?” (Ga 6,52). Thắc mắc của người Do-thái càng làm cho Đức Giêsu nhấn mạnh hơn nữa : “Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi không có sự sống nơi mình các ngươi. Ai ăn thịt và uống máu Ta thì có sự sống đời đời”(Ga 6,53-54). Xét bề ngoài, lời lẽ của Đức Giêsu quả thực là sống sượng như một số người trong các môn đồ của Ngài nhận xét : “Lời chi mà sống sượng thế ! Ai nào có thể nghe nổi ?” (Ga 6,60). Chắc chắn tác giả có dụng ý nhấn mạnh mầu nhiệm Nhập Thể. Mầu nhiệm này như cái trục của Lịch sử cứu độ. Từ chối mầu nhiệm này là từ chối Lịch sử cứu độ. Từ chối mầu nhiệm này là từ khước con người cụ thể của Đức Giêsu. Chữ sarx ở đây được dịch bằng chữ thịt là rất đúng, nhưng chữ “thịt” cũng gần giống như chữ xác phàm được cha Nguyễn Thế Thuấn dùng trong bài Tựa Tin Mừng Gioan. Xác phàm là tạo vật, là thực tại mỏng dòn, yếu đuối như bông hoa sớm nở tối tàn. Nhưng Ngôi Lời, Đấng Siêu Việt, Đấng là Thiên Chúa, đã thành xác phàm (Ga 1,14). Thành ngữ “xác thịt và máu huyết” (sarx kai aima) chỉ bình diện con người, bình diện tạo vật. Đức Kitô đã đến trên bình diện tự nhiên so với bình diện siêu nhiên ; hay nói đúng theo Tin Mừng Mt 16,17 “xác thịt và máu huyết” đối lại với “Cha trên trời”. Ngôi Lời đến với nhân loại chúng ta trong thân phận “xác thịt và máu huyết”. Không chấp nhận thân phận xác thịt và máu huyết của Ngôi Lời, của Con Thiên Chúa, là không chấp nhận Con Thiên Chúa. Và như lời thư Gioan, ai không có “Chúa Con”, thì không có sự sống (1 Ga 5,12). Từ nay, không thể tách rời Con Thiên Chúa với xác thịt và máu huyết, không thể tách rời Thiên Chúa với con người. IGNACE d’Antioche thuộc thế hệ thứ ba sau Gioan, không dùng chữ sôma, mà dùng chữ sarx như Gioan. Trong thư gửi cho giáo đoàn Smyrne, Ignace nói đến nhóm người theo ngộ-đạo-thuyết : “Họ không cử hành Thánh Thể và không cầu nguyện, vì họ không tuyên xưng “Thánh Thể” là “Thịt” của Chúa chúng ta, Đức Giêsu Kitô” (7,1). Cách nói này biểu lộ niềm tin thực tiễn (foi “réaliste”) của các Ki-tô-hữu so với quan điểm “phi-vật-chất” của những người theo “ngộ-đạo-thuyết”. Nó xác nhận câu nói trong đoạn VI Tin Mừng Gioan : “Ai ăên thịt và uống máu Ta thì có sự sống đời đời” là nội dung chủ yếu của “niềm tin thánh thể” (foi eucharistique). Niềm tin vào bí tích Thánh Thể và niềm tin vào mầu nhiệm Nhập Thể đi đôi với nhau, gắn liền với nhau. Ignace, cũng như Gioan, càng nhấn mạnh đến tính thực tại của mầu nhiệm Nhập Thể bao nhiêu (1 Ga 4,2-3), thì càng bảo vệ tính thực tại (realisme) của bí tích Thánh Thể bấy nhiêu. Nếu chúng ta đọ các câu 53 và 54 trong đoạn VI Tin Mừng Gioan với các câu 2 và 3 trong đoạn IV thư thứù nhất Gioan, tương quan giữa “Thánh Thể” và “Nhập Thể” không thể nào chối cãi được : “Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi không có sự sống nơi mình các ngươi. Ai ăn thịt và uống máu Ta thì có sự sống đời đời…” “Nơi điều này anh em biết được thần khí của Thiên Chúa, phàm thần khí nào tuyên xưng Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thịt là (thần khí) thuộc về Thiên Chúa ; và phàm thần khí nào không tuyên xưng Đức Giêsu, thì nó không thuộc về Thiên Chúa. Đó là thần khí của Phản-Ki-tô ; anh em nghe nói rằng nó sẽ đến…” Gioan gọi những người không tin mầu nhiệm Nhập Thể là “Phản-Kitô” ; Ignace gọi họ là “vô tín ngưỡng” (apistoi). Khi nói tới “xác thịt” của Đức Kitô, Ignace đi thêm một bước : nhấn mạnh tới thực tại của xác thịt, là nhấn mạnh tới thực tại của cuộc “khổ hình” mà Đức Kitô đã chịu (Ad Smyrn. I-II). Con Thiên Chúa đã chịu khổ hình thực sự trong thân xác, chứ không phải chỉ chịu khổ bên ngoài, giả vờ chịu khổ hình. Muốn được cứu rỗi, những người ngộ đạo phải hoán cải và tin vào cuộc khổ nạn của Đức Kitô (Ad Smyrn. 5,3). Đối với Ignace, dù là thiên thần hay tổng lãnh, tất cả đều phải án phạt nếu không tin vào “máu Đức Kitô” (Ad Smyrn. 5,1). Thành ngữ “máu Đức Kitô” rõ ràng là một thành ngữ bí tích nhưng ở đây thành ngữ được nối kết một cách chặt chẽ với cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô. Điều đó làm chúng ta liên tưởng đến cả bàn Tiệc Ly, lẫn hy tế Thập Giá : “Máu” Tân Ướùc vĩnh cửu sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Sau khi đề cập đến cuộc khổ nạn và máu Đức Kitô, Ignace nói ngay đến đức tin và lòng mến, giống như Gioan trong đoạn VI nhấn mạnh tối đa tới “ăn thịt” và “uống máu” Đức Kitô, cũng nhấn mạnh tối đa đến đức tin, và nối kết chặt chẽ mầu nhiệm Thánh Thể với đức tin (Ga 6,64-69). Dường như đối với Gioan cũng như đối với Ignace, dùng chữ “sarx” thay cho chữ “sôma” thì tránh được nguy cơ giải thích theo lối tượng trưng (interprétation symbolique). Luther, dù chối tính hy tế của Thánh Lễ, đã tích cực chống lại những ai chối bỏ thực tại của bí tích Thánh Thể. Ông cho rằng bài học về Thánh Thể không khó tin hơn bài học về Chúa Kitô : đối với lý trí tự nhiên của con người, cả hai đều “sống sượng”. Luther nói đúng, vì Con Thiên Chúa thụ thai trong dạ của một người nữ hay trở thành thịt để chúng ta cắn và ăn, cả hai đều không thể hiểu. Trong Ga 6,54, tác giả dùng động từ trogein, được notes của bản TOB dịch bằng hai chữ mâcher, croquer (nhai). Còn uống máu là một cớ vấp phạm cho người Do-thái, vì Lề Luật cấm uống máu (Lv 17,10-12). Manaranche, trong tác phẩm “Này là Mình Ta” (Ceei est mon Corps), dùng những thành ngữ rất cô đọng và sâu xa : thân mình Đức Kitô trong bí tích Thánh Thể là “thân xác tội lụy” (corps de péché), là “thân xác vinh quang” (corps de gloire), và là “thân mình ân sủng” (corps de grâce). Thân xác tội lụy không những là thân xác với mọi giới hạn của xác thân (nhập thể), còn là một thân xác hiện diện trong thế giớùi tội lỗi (nhập thể), một thân xác mang gánh nặng của tội lỗi (đền tội). Nhưng đó cũng là thân xác vinh quang, là thân xác của Đức Giêsu Kitô đã vượt qua sự chết vàø những giới hạn của thế giới sự chết, vượt qua cá nhân mà không hủy hoại cá nhân, còn biến cá nhân trở thành nhân vị. Đó là “thân mình ân sủng” (corps de grâce), vì thân xác phục sinh mới có khả năng tự hiến thực sự, tự trao ban cho người khác và người khác có thể đón nhận (le Ressuscité devient communicable). Đức Giêsu Kitô Phục Sinh vinh quang trở thành lương thực nuôi sống Giáo Hội, nuôi sống ki-tô-hữu chúng ta, như Đức Kitô đã nói : “Ai ăn Ta, thì sống nhờ Ta” (Ga 6,57). Phục Sinh không là “xuất thể” (désincarnation), “ra khỏi thân xác”, mà là “thân xác được vinh quang”. Phục Sinh không là “bốc hơi” (évaporation), trở thành khí, nhưng là trở thành “phổ quát”, vượt thời gian và không gian, dù không đánh mất căn tính “Giêsu Nazaret”. Điều đó có một hệ luận rất quan trọng. Ai hiểu được sẽ không lý luận như Calvin dựa vào Cv 2,32 nói về sự Phục Sinh : “Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã cho sống lại… Được nhắc lên bên hữu Thiên Chúa, Ngài đã lĩnh nơi Cha ơn đã hứa là Thánh Thần mà đổ xuống”. Trong tác phẩm “L’Institution chrétienne”, Calvin viết : “Nếu Đức Kitô ngự bên hữu Chúa Cha, làm sao cùng một lúc Ngài có thể ngự trên bàn thờ ? Vì chưng chúng ta không nghi ngờ là Thân Xác Đức Kitô có kích thước, như bản chất tự nhiên của thân xác con người. Chúng ta không nghi ngờ thân xác ấy ở trên trời, cho tới ngày quang lâm phán xét. Chính vì thế, chúng tôi cho rằng không được phép hạ thân xác Đức Kitô xuống ngang hàng những yếu tố vật chất hư nát, và tưởng tượng là thân xác ấy hiện diện khắp nơi”. (Jean Calvin, L’Institution chrétienne, livre VI, ch XVII No 12 “Labor et Fides”, Genève 1958, p. 359). Luther chống lại những tư tưởng ấu trĩ này cách sắc bén bằng những cách nói rất mỉa mai : “Vậy Đức Kitô ngồi trên một ngai vàng, bên cạnh Chúa Cha, mình mặc áo choàng, đầu đội triều thiên sao ? Ngài coi vinh quang của Ngài là được ngồi bên hữu Thiên Chúa trên một cái gối bằng nhung, và nghe các thiên thần ca hát trước mặt Ngài sao ?” (Martin Luther, Oeuvres, tome VI, “De la Cène du Christ”, Labor et Fides, 1964, p. 55-57). Comments are closed.
|
CategoriesAll Bai Viet Hay Bidong Cau Nguyen Chua Chua Giesu Chuyen Ke Chuyen La Computer Con Nguoi Danh Ngon Dao Dien Thoai Doi Song Dong Vat Download Youtube Duc Giao Hoang Duc Kito Duc Me Gia Dinh Giai Tri Giang Sinh Giao Duc Hanh Phuc Hoi Dap Hon Nhan Inspiration Internet Ky Nghe Ky Niem Bidong Linh Thieng Loi Chua Meo Vat Nghe Thuat Ngoai Ngu Nhu Lieu On Goi Phuc Sinh Phu Nu Sach Sach Dao Software Suc Khoe Suy Niem Tam Linh Tang Le Thanh Ca Thanh Nhan Thien Chua Thien Chua Thien Nhien Tho Tho Bidong Tho Dao Tho On Goi Tho Ty Nan Tho Ve Me Tho Vui Tin Cong Giao Tinh Ban Tinh Cam Tinh Yeu Tin Tuc Tre Em Ty Nan Vatican Vui Cuoi Vuot Bien Xa Hoi Xuan Yeu Thuong Archives
May 2016
Thư Giãn |