bài viết
Vietnamese ARTICLES
LỜI MỞ ĐẦU Suốt dòng lịch sử, Thiên Chúa đã gởi các ngôn sứ và các Thánh tới nhắc bảo và hướng dẫn Dân Ngài. Ngày nay cũng vậy, Thiên Chúa gởi các Thánh tới để khai sinh các dòng tu nam nữ đáp ứng các nhu cầu đặc biệt. Thiên Chúa đã gởi các vị tử đạo đến để làm chứng nhân cho đức tin, đã gởi các trinh nữ đến để làm người bảo vệ sự trinh khiết, và những con người thánh như Don Bosco, để dạy về nhân đức và sứ vụ tông đồ cho một thành phần đặc biệt của Dân Chúa, đó là giới trẻ. THÀNH PHỐ BẤT AN
Tôrinô thay đổi, tội ác nở rộ. Khi còn trẻ, Don Bosco dấn thân làm việc giữa những tội phạm và những người trẻ đang bị giam cầm trong điều kiện sống dữ dằn. Châu Âu đang khi muốn đấu tranh để thiết lập những chính phủ dân chủ, lại bị những mưu đồ chính trị, những cuộc ám sát, bạo loạn và những cuộc nội chiến trong suốt thế kỷ 19 phá hủy. Người Kitô hữu của lục địa này bị chia rẽ một cách đau đớn, chỉ kháng cự những kẻ vô thần hiếu chiến một cách yếu ớt. Thành phố Tôrinô dễ thương thuộc bắc Ý dưới chân dãy núi Alpe đầy tuyết, nay xem ra đã đẹp hơn những ngày đông năm 1846. Các kỹ sư Rôma tài năng ngày trước đã thiết kế được những con đường và quãng trường chính của Thành phố, mà trải bao thế kỷ, du khách đã phải trầm trồ Tôrinô là “ngôi làng đáng yêu nhất thế giới”. Nhiều gia đình quý tộc đã theo gót cha ông bảo vệ vùng đất miền bắc Ý và kiểm soát các ngã đường qua núi Alpe mà các thương lái hoặc quân xâm lăng đôi khi dùng để đi vào đất Ý, cho tới thời những đạo quân Rôma bố trí đồn trú tại Tôrinô. Với cảnh trí đầy ấn tượng và là một dân tộc có văn hóa và tầm quan trọng về thương mại, Tôrinô ngay từ buổi đầu lịch sử của mình đã phát triển theo một nét quý phái riêng. Vào thời mà chúng tôi ghi chép đây, thì dòng họ Savoie đang làm quân vương và cai trị miền bắc Ý. Tuy nhiên, mọi sự lại không bình lặng. Tôrinô của thế kỷ 19 cũng giống như nhiều thành phố tại Châu Mỹ và Châu Âu, đã thay đổi từ một trung tâm tỉnh lỵ vắng vẻ thành một thành phố công nghiệp náo nhiệt. Quả vậy, nhà máy mỗi ngày mỗi mọc lên, dòng người từ những nông trại bắc Ý và từ bên kia thung lũng dãy Alpe mỗi ngày mỗi tuôn về Tôrinô để tìm việc làm và những phấn khích mà Torinô cống hiến. Lớp trẻ lao động vừa nhập cư này sống chen chúc nhau trong những phòng trọ ngột ngạt và dơ bẩn, có khi sáu hoặc tám người một phòng. Tội ác, bệnh tật và những tệ nạn nở rộ. Đối với hầu hết cư dân khu ổ chuột này thì Thượng Đế chỉ còn là ký ức nhạt nhòa gắn liền với những trang trại hoặc những cửa hàng bơ sữa mà họ đã bỏ lại để lên thành phố. Các băng đảng của đám trẻ côn đồ đã thành hình trên các đường phố và thường tràn vào những khu khá giả hơn của Tôrinô, thực hiện hàng loạt các vụ trộm cướp, đôi khi cả giết người. Chính quyền thành phố đã tăng cường lực lượng cảnh sát và xét xử mau lẹ. “Ngôi làng đáng yêu nhất thế giới” nay đã có 150.000 cư dân, hãnh diện có không dưới bốn nhà tù cỡ lớn mà phần nhiều tù nhân chỉ là những trẻ nam, có em chưa đến tuổi thành niên. CON NGƯỜI THẲNG THẮN Một vấn đề mới gần đây lại gây thêm khó chịu cho người dân Tôrinô, đó là sự xuất hiện của vị linh mục chẳng giống ai. Từ mấy năm qua, vị giáo sĩ này được biết đến là Don Bosco hay cầm đầu một đám trẻ nghèo vừa đi vừa ca hát và la ó khắp các ngả đường thanh lịch của Tôrinô. Khoác trên mình một cái áo vá dính bột, đi đôi giầy lao động nhà nông, vị linh mục này đã bắt đầu mọi việc với một nhúm trẻ. Nhúm trẻ buổi đầu kia nay đã nở lớn thành 400 đứa. Dầu chúng chẳng gây ra tội gì, nhưng người ta cứ ái ngại về khả năng kiểm soát của Don Bosco đối với đạo quân nhóc tì này. Chính quyền, các chủ báo và những kẻ thù sợ rằng Don Bosco đang gầy dựng quyền lực chính trị tương lai cho mình. Nếu người ta có nghĩ bầu khí chính trị bất ổn của nước Ý như là một điều lập lờ thì cũng không vô lý. Vào thời Don Bosco, nước Ý chưa thống nhất. Ý được chia làm bảy lãnh thổ khác nhau. Áo và Pháp cai trị tới nửa đất Ý. Lãnh thổ giáo triều do Đức Thánh Cha Piô IX cai quản nằm giữa phần trung tâm đất Ý. Đức Piô IX không có quân đội nên đã từ chối hỗ trợ cuộc chiến đánh đuổi quân Áo xâm lăng. Nhiều người Ý cho rằng Đức Thánh Cha đã bênh vực ngoại bang, nên coi ngài là thù địch của mối đoàn kết dân tộc. Đợt triều cường chống đối giáo sĩ vốn đã tích tụ lâu nay đã càn quét khắp nơi. Những kẻ thù của Giáo hội đã đuổi các giám mục ra khỏi giáo phận của họ, đàn áp các cơ sở tôn giáo, đầy ải các linh mục và tu sĩ. Đức Piô IX và hàng giáo sĩ Ý đã trở thành như những đứa trẻ ưa chịu đòn của cuộc đàn áp cách mạng tự do. Tháng 11 năm 1848, sự căm ghét đã lên tới cực điểm khi các đảng cách mạng xông vào điện Rôma của Đức Piô IX, nhốt vị Quốc Vụ Khanh, bắn chết một vị trong Hội Đồng Tư Vấn. Đức Piô IX đã trốn sang vương quốc Napolie qua cửa bí mật và bị lưu đày ở đó sáu tháng. Do bản chất của công việc cùng với sự thành công mà Don Bosco có được vì giới trẻ, Don Bosco đã trở thành mục tiêu người ta ưa nhắm tới. Ngài đã bình thản trả lời đối với tất cả những lời chỉ trích nhắm về phía mình: “Trong chính trường, tôi không đứng về phe ai. Tôi là một linh mục. Nước mà tôi phục vụ chính là Vương quốc của Thiên Chúa”. TỪ KHI LÊN CHÍN Don Bosco đã từng là nạn nhân bị những kẻ đố kỵ nhắm tới. Truyền thống kể lại rằng có con chó xám thỉnh thoảng xuất hiện để tháp tùng hoặc bảo vệ Don Bosco. Gioan Bosco đã khao khát phục vụ cho Vương quốc kia từ khi còn là chú bé. Ngài đã viết: “Vào lúc chín tuổi, tôi đã biết mình muốn trở thành một linh mục để giúp đỡ giới trẻ”. Ngài đã gặp khó khăn để biến giấc mơ của mình thành hiện thực. Cha của Gioan là một nông dân cần mẫn đã qua đời lúc Gioan chưa tròn hai tuổi. Mẹ của Gioan là bà Magarita. Bà đã giữ cho gia đình được nguyên vẹn, điều hành cái nông trại Bosco nhỏ, nuôi ba đứa con, chăm sóc bà mẹ chồng lớn tuổi và hay đau yếu. Magarita là phụ nữ có cá tính và đầy can đảm, đã tỏ ra có đủ sức đương đầu với cuộc đấu tranh sinh tồn thường tàn nhẫn và cay đắng. Tuy nhiên, bất kể cái nghèo, bà Magarita đã khuyến khích Gioan xây dựng giấc mơ của cậu. Dù thiếu tiền và yếu thế nhưng Gioan lại không thiếu những tài năng. Cậu sở hữu cả một loạt tài năng đáng nể, cộng với một thể trạng tuyệt vời từ khi còn rất trẻ. Tại các hội chợ quê, cậu đã học các mánh lới của những tay ảo thuật, và những trò nhào lộn nguy hiểm của những kẻ gan dạ. Trở về nhà, cậu quyết luyện tập các ngón nghề đó cho bằng được và thường vượt qua cả những người đã hướng dẫn cậu. Dù phải đau vì bầm dập, bong gân trong lúc luyện tập, Gioan không để mất đi nhiệt tình đối với trò giải trí đầy nguy hiểm này. Gioan hiểu rằng các ngón ảo thuật và đi thăng bằng trên dây sẽ hấp dẫn được các bạn trẻ đến với mình. Tuy vậy, những tài năng thể lý nơi Gioan lại mờ nhạt so với trí khôn sắc sảo của cậu. Gioan rất thông minh nên có một trí nhớ đáng nể. Điều đó được chứng tỏ vào một buổi tối nọ trong một dịp tĩnh tâm, cha sở hỏi xem Gioan có hiểu bài giảng của ngài không. Gioan ngày ấy mới chín tuổi, đã nhắc lại trọn vẹn bài giảng không sót một câu. Ta cũng cần lưu ý rằng, vào thời ấy hầu như chẳng có nhà giảng thuyết nào dám rời tòa giảng trừ khi đã giảng ít là được một giờ. Khi trở thành thanh niên, Gioan có tầm vóc trung bình. Gương mặt cởi mở và ngay thẳng của Gioan được điểm bằng mớ tóc ngắn vừa dầy vừa quăn màu hạt dẻ. Gioan luôn vui tươi, kỷ luật và có một năng lực làm việc dữ dội. CHẲNG PHẢI LÀ SIÊU NHÂN Gioan thời trẻ cũng có những khuyết điểm. Dù còn trẻ, nhưng tình cảm và cảm xúc của Gioan đã rất xâu xa và mãnh liệt. Gioan cũng có máu hăng, đôi lần không thoát được cách giải quyết vấn đề bằng những quả đấm. Gioan ý thức rất rõ tính kiêu căng của mình. Cậu sợ mai này mình sẽ sử dụng chức linh mục cho những tham vọng cá nhân. May thay, Gioan đã thành công trong việc kiềm chế những xung lực kia và làm cho trọn cuộc sống của mình đậm nét điềm đạm, tràn ngập bình an và đầy tình bằng hữu với mọi người. ĐƯỜNG TỚI CHỨC LINH MỤC Gioan đã làm việc cật lực trong thời làm chủng sinh. Suốt những năm dài học tập, cậu nắm bắt được nhiều nghề khác nhau. Bởi thế, trước khi làm linh mục, Gioan đã biết làm bánh kẹo, sửa giày, cắt may quần áo, điều hành một tiệm ăn, tổ chức một xuất xiếc độc diễn. Buổi biểu diễn của cậu đã cuốn hút được các bạn nhỏ. Sau những giây phút tuyệt vời cống hiến cho các bạn, Gioan lại xen vào một hai bài giáo lý. LINH MỤC ĐỜI ĐỜI Năm 1841, Đức Tổng Giám Mục Tôrinô đã phong chức linh mục cho Gioan, lúc đó vừa tròn 25 tuổi. t lâu sau, ngài còn chấp thuận cho Gioan học 5 năm hậu thần học tại Học viện Giáo sĩ Tôrinô. Ban giám hiệu Học viện biết được nhiều linh mục Ý từ chối hòa mình với dân chúng có óc bài giáo sĩ nên đã xin các học viên trẻ hòa đồng với dân chúng thành phố, đặc biệt với người nghèo. Thế là Gioan đi thăm và phục vụ tại các nhà thương, trại giam, cô nhi viện và các khu ổ chuột trong thành phố. Kinh nghiệm đầu đời về mặt trái nhơ nhớp của thành phố văn hóa Tôrinô đã chạm tới con tim nhân ái và nhạy cảm của Gioan. Tuy nhiên, chính hoàn cảnh đáng thương của các trẻ em khu ổ chuột mới làm nặng lòng Gioan nhất. Vào năm lên chín tuổi, Gioan đã mơ thấy mình làm linh mục. Điều này đã được thực hiện. Nay Gioan phải thực hiện phần thứ hai của giấc mơ để phục vụ giới trẻ. LUÔN LÀ CHÚA NHẬT Thuở nhỏ, Gioan mơ thấy một bà đẹp bảo rằng: đời của ngài có nhiệm vụ làm biến đổi sói thành chiên ... trẻ lang thang thành công dân lương thiện và người thợ hữu ích. Gioan đã lên đường. Khi còn là sinh viên hậu thần học, Gioan đã thuyết phục được một số trẻ tới họp mặt vào mỗi chiều Chúa nhật tại sân trường. Gioan kiên nhẫn làm bạn với các trẻ đường phố theo lời dạy của thánh Phanxicô Salê: “Một giọt mật ngọt có thể bắt được nhiều ruồi hơn là một thùng giấm chua”. Gioan đã bắt được ruồi. Trẻ đường phố dẫn về trẻ đường phố. Bạn học nghề dẫn theo bạn học nghề. Em mồ côi kéo tới em mồ côi. Rảo khắp các khu ổ chuột Tôrinô, Gioan mời các bạn trẻ mỗi Chúa nhật đến bên nhau, tại học viện. Gioan gọi sự quy tụ đó là “Nguyện xá Chúa nhật”. Nguyện xá có những hoạt động như ca hát, cầu nguyện, học giáo lý và nhảy cừu, thi đấu, du ngoạn, cắm trại. Một bạn trẻ của thời ban đầu ấy còn nhắc lại những ngày Chúa nhật xưa thân ái như sau: “Vào cuối mỗi ngày Chúa nhật đi chơi như thế, Don Bosco luôn báo cho chúng tôi biết kế hoạch của Chúa nhật sắp tới. Ngài hướng dẫn chúng tôi biết cách cư xử trong cuộc sống và yêu cầu chúng tôi mời thêm các bạn tới sinh hoạt. Niềm vui luôn tràn đầy giữa chúng tôi. Những ngày hạnh phúc ấy đã khắc sâu vào lòng cũng như đã ảnh hưởng vào cuộc đời tương lai của chúng tôi”. Khi đi dã ngoại tới nhà thờ nào đó ở ngoại ô, Don Bosco luôn ngỏ lời xin phép cha sở cho bọn trẻ chơi đùa. Bao giờ lời xin ấy cũng được chấp thuận, và rồi theo hiệu lệnh, đám trẻ ồn ào được tập trung lại. Giáo lý kế tiếp bữa lót dạ: bãi cỏ và phiến đá thế cho bữa ăn và bàn ăn. Phải nói rằng bánh mì có thể đôi lúc còn thiếu, nhưng niềm vui thì không thiếu bao giờ. Chúng tôi vừa đi vừa ca hát cho đến khi chiều xuống mới trở về Tôrinô. Ai nấy đều mệt nhoài nhưng hạnh phúc. Tuy nhiên không phải mọi người ở Tôrinô đều hài lòng. Quả vậy, Don Bosco dù đã dùng cả lưu xá Học viện vẫn chưa tìm ra đủ chỗ để tập hợp 400 bạn trẻ. Có vài nhà hảo tâm đã cố gắng giúp đỡ, nhưng sự có mặt ồn ào của đám trẻ đông đúc và sung sức này đã làm cho sự bực bội của hàng xóm đổ lên đầu họ. Trong khoảng năm tháng, không dưới mười người đã cho Don Bosco sử dụng nhà của mình. Tuy nhiên, sau một chút kinh nghiệm, ai nấy đều rút lại lời hứa. Don Bosco rõ ràng chẳng còn nơi nào để thu nhận lũ trẻ rách rưới của mình nữa. Sau này khi nhớ lại Chúa nhật Lễ Lá năm 1846, lúc Don Bosco cảm thấy công cuộc của mình như đến hồi kết thúc, ngài đã ghi lại: “Nhìn vào đám đông thanh thiếu niên, nghĩ đến mùa gặt phong phú mà các em hứa hẹn, tôi cảm thấy tim mình tan nát, mình thật cô độc, không người giúp đỡ, sức khỏe suy sụp. Tôi cũng không thể nào nói được là sẽ tụ họp những bạn trẻ tội nghiệp kia ở đâu nữa”. Don Bosco hối thúc bọn trẻ cầu nguyện và như điều thường xảy ra, lời cầu nguyện của bọn trẻ đã được Chúa nhận lời. Có một ông Pinardi kia đã cho Don Bosco thuê một miếng đất ngay tại khu đầm lầy Valdocco. Được tin, Don Bosco chậm trả lời vì hãy còn buốt người vì những thất bại vừa xảy ra. Ông Pinardi cho biết khu nhà đất ấy bao gồm một cái chái nhà nhỏ lợp bằng cỏ khô, có thể dùng làm nhà nguyện. Tuy nhiên, vừa nhìn thấy cái chái nhà kia, Don Bosco đã thất vọng não nề. Nó quá thấp để chui người vào. Ông Pinardi không nao núng góp ý: “Lạy Chúa, đừng lo. Chúng tôi sẽ cho người hạ thấp nền xuống. Cha sẽ có thể cử hành Thánh Lễ tại đây vào Chúa nhật Phục Sinh mà”. Lời của ông Pinardi thật tốt lành. Vào sáng Chúa nhật Phục Sinh, Don Bosco đã cử hành Thánh Lễ trên cái bàn mộc mạc, chung quanh là đám trẻ nghịch ngợm ngồi như nêm trong cái chái nhà rệu rạo. Vâng, cái chái nhà Pinardi chẳng phải là nhà nguyện của dòng chiêm niệm, đám thợ trẻ cũng chẳng phải là ca đoàn, nhưng những điều đó không ngăn cản các em cử hành Lễ Phục Sinh trong hạnh phúc. Cuối cùng thì nguyện xá đã có được một ngôi nhà. Vị linh mục chưa biết được rằng mình sẽ phải trả một giá đáng sợ cho thành công của mình. NHÂN DANH CON CÁI TÔI Trong vòng 5 năm cũng như suốt thời sinh viên hậu thần học, Don Bosco đã hiến cuộc đời mình cho các bạn trẻ. Tuy chỉ gặp chúng vào ngày Chúa nhật, nhưng mỗi khi rảnh trong tuần, Don Bosco luôn đáp ứng yêu cầu của các em. Ngài thăm các em chính nơi các em làm việc, tìm việc cho ai bị mất việc, nuôi dưỡng em bệnh, cứu giúp những em phạm pháp và bằng mọi cách tranh đấu cho các bạn nhỏ của ngài tránh được các nhà cải huấn tồi tệ ở Tôrinô. Và cũng bởi vậy, tất cả các công việc trên đã quật ngã Don Bosco: Sau ba tháng mua được miếng đất của ông Pinardi, Cha hầu như bị kiệt sức vì chứng sưng phổi trầm trọng tấn công. Tại bệnh viện, các bác sĩ ái ngại có thể ngài không qua nổi. Nghe được tin ấy, các bạn trẻ nát lòng, ngơ ngẩn đã chen chúc ở sân bệnh viện đợi chờ tin lành. Có nhiều em đi vào nhà thờ gần đó cầu nguyện cho người đã yêu thương mình quá nhiều. Có những sáng kiến hành động xuất phát nơi các nhóm trẻ. Các em tổ chức những cuộc canh thức suốt đêm. Các em đã phát nguyện những lời hứa nghiêm nhặt với Chúa theo nhiệt tình tuổi trẻ. Không ít em có lời khấn xin phục hồi cuộc sống cho Don Bosco, hoặc thêm lời cầu nguyện và thêm việc đền tội. Có vài em nhỏ làm hồ đã nhất quyết ăn chay dù công việc các em phải khiêng gạch và hồ lên tận lầu 4 hay 5 tới 40-50 lần mỗi ngày. Quả thật, các em đã chịu cực nhọc đến lả người, nhưng vẫn quyết tâm vật lộn trong lời cầu nguyện và đền tội để Don Bosco thoát được sự níu kéo của cái chết. Dầu vậy, công sức của các em dường như vô ích. Tình trạng sức khỏe của Don Bosco vẫn tiếp tục xấu hơn. Ngài dọn mình chết lành. Bên cạnh Don Bosco lúc ấy có cha Borel là người bạn thân đang cúi xuống thì thầm: “Này Gioan Bosco, đám trẻ cần đến cha. Hãy xin Chúa cho cha ở lại. Xin cha lặp lại lời cầu nguyện này theo tôi: Lạy Chúa, nếu đẹp ý Chúa, xin chữa con, con nguyện xin Chúa nhân danh đám trẻ của con”. Gioan Bosco đã chậm rãi lập lại lời cầu nguyện. Khi cha vừa kết thúc thì cơn sốt cũng tan, chứng sưng phổi cũng biến đi. ĐÓN CHA TRỞ VỀ Khoảng hai tuần sau, các bác sĩ cho phép Don Bosco rời bệnh viện. Ngoài sân kia, đám trẻ đang đợi cha. Khi Don Bosco xuất hiện, các em ùa tới, khiêng bổng cha lên và kiệu cha trên vai ngang qua các đường phố Tôrinô. Tràn ngập niềm vui, các em ca hát, hò la và hoan hô đến độ những cư dân của thành phố cũng phải cảm động đến rơi lệ. Trẻ đường phố và trẻ nghèo đã bày tỏ lòng trung thành và ngưỡng mộ đối với người cha của mình cách lạ lùng như vậy đó. MẸ MAGARITA ĐẾN Không lâu trước khi Don Bosco bị bệnh, bà hầu tước Barolo là một phụ nữ quý phái, giầu có và là người đã cung cấp nơi ăn chốn ở cho Don Bosco tại Tôrinô. Khi vị linh mục này bắt đầu miệt mài với công việc mới của mình và không còn điều hành cô nhi viện nuôi trẻ nữ là một trong các cơ sở từ thiện của bà được nữa, thì bà yêu cầu Don Bosco rời khỏi khu vực trên. Bởi vậy, lúc xuất viện, Don Bosco không còn nơi nào trú thân. Dù thế, đó chưa phải là vấn đề cấp bách vì Don Bosco đã quyết định về tĩnh dưỡng tại nhà của mẹ mình ở một nông trại quê, cách Tôrinô 20 dặm. Khi Don Bosco trở lại thành phố, ông Pinardi một lần nữa lại tìm Don Bosco để cho thuê thêm bốn phòng tại khu đang có nguyện xá. Do căn nhà có sự khác thường này và những nhà lân cận đã có tiếng xấu làm Don Bosco do dự. Nhưng rồi, khi nghĩ rằng nếu có sự hiện diện của mẹ mình, có thể sẽ làm giảm đi những nghi nan trong các hoạt động của mình, Don Bosco đã xin mẹ chấp nhận hy sinh để bỏ đời sống ở nông trại thân thương, về làm người mẹ giữ nhà trong phạm vi nhỏ hẹp của một căn hộ thành phố. Bà đã hỏi con rằng : “Con có nghĩ đó là ý Chúa không?” Don Bosco trả lời: “Thưa mẹ, con nghĩ là như vậy”. Mẹ Magarita chỉ cần nghe có thế. Tháng 11 năm 1846, bà đã gom lại chút tài sản nghèo, rồi đi với con lên thành phố Tôrinô. Hai mẹ con đã đi suốt quãng đường 20 dặm vì không đủ tiền đi xe. Comments are closed.
|
CategoriesAll Bai Viet Hay Bidong Cau Nguyen Chua Chua Giesu Chuyen Ke Chuyen La Computer Con Nguoi Danh Ngon Dao Dien Thoai Doi Song Dong Vat Download Youtube Duc Giao Hoang Duc Kito Duc Me Gia Dinh Giai Tri Giang Sinh Giao Duc Hanh Phuc Hoi Dap Hon Nhan Inspiration Internet Ky Nghe Ky Niem Bidong Linh Thieng Loi Chua Meo Vat Nghe Thuat Ngoai Ngu Nhu Lieu On Goi Phuc Sinh Phu Nu Sach Sach Dao Software Suc Khoe Suy Niem Tam Linh Tang Le Thanh Ca Thanh Nhan Thien Chua Thien Chua Thien Nhien Tho Tho Bidong Tho Dao Tho On Goi Tho Ty Nan Tho Ve Me Tho Vui Tin Cong Giao Tinh Ban Tinh Cam Tinh Yeu Tin Tuc Tre Em Ty Nan Vatican Vui Cuoi Vuot Bien Xa Hoi Xuan Yeu Thuong Archives
May 2016
Thư Giãn |