bài viết
Vietnamese ARTICLES
Trước tiên, chúng ta phải đề cập đầu tiên đến ơn gọi của ông Áp-ram Ơn gọi này gắn liền với chương trình cứu độ của Thiên Chúa : “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ ban phúc lành cho ngươi ... Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (12,1-2a.3c). Sau khi ông rời Kha-ran mà vào đất Ca-na-an, lời Thiên Chúa lại vang lên, đem lại lời hứa sau đây : “Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi” (12,7a). Một vùng đất, một dân tộc : đó là đối tượng của lời hứa Thiên Chúa ban ! Từ một người, Thiên Chúa tuyển chọn một gia đình ; sự tuyển chọn này giải rộng đến một dân tộc, dân tộc Ít-ra-en. Thiên Chúa và ba tổ phụ của Ít-ra-en
Thiên Chúa thiết lập mối tương giao liên vị ngày càng sâu xa hơn với các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, can thiệp theo nhiều hình thức khác nhau vào cuộc sống các ông, đưa các ông vào một cuộc phiêu lưu tôn giáo, dẫn từ từ đến kinh nghiệm về Thiên Chúa và mối tương quan mật thiết với Người. Ông Áp-ra-ham luôn tỏ ra là người có một đức tin vững mạnh, tuyệt đối vâng phục Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, cách riêng trong ba biến cố : 1) chấp nhận một cuộc phiêu lưu, khi rời bỏ xứ sở và họ hàng mà đi tới đất Thiên Chúa sẽ chỉ cho mình (12,1-4) ; 2) tin vào Thiên Chúa, Đấng hứa ban một người con thừa kế, một dòng dõi đông đúc mặc dầu hai vợ chồng đã cao niên (17,15-19 ; 18,9-14), và còn hứa ban một vùng đất (15,2-6.18 ; 17,2-6.8.15-19.21 ; v.v.) qua Giao Ước Thiên Chúa thiết lập với mình (15,9-21 ; 17,2-14 ; v.v.) ; 3) bằng lòng hy sinh người con duy nhất làm lễ vật mà vẫn tin vào lời hứa của Thiên Chúa về dòng dõi đông đảo (22,1tt). Trong các trình thuật từ St 12 đến 25,11, ông Áp-ra-ham nổi bật với tư cách trưởng tộc, người nhận lời hứa được đưa vào Giao Ước, tổ phụ một dòng dõi đông như sao trời, nhân vật được Thiên Chúa sử dụng để thực hiện ý định của Người về một dân tộc. Tóm Lược Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo I. Thời gian Giáo Hội Công Giáo được thiết lập - Giáo Hội Thời Sứ Ðồ (Thế Kỷ 1) - Nếu Giáo Hội Công Giáo được định nghĩa là một khối tín hữu vây quanh Chúa Cứu Thế và vâng lời Người, thì Giáo Hội đã có từ khi bốn dân chài: Phêrô và Anrê, Giacôbê và Gioan đáp lời mời của Chúa Giêsu bỏ thuyền lưới tại hồ Galilê, đi theo Chúa Giêsu để trở nên những ngư ông "đánh cá người" (Mt 4,18-22). - Theo các nhà thần học, Giáo Hội được thành lập vào buổi sáng ngày Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, khi thánh Phêrô và các Tông đồ được tràn đầy ơn Thánh Thần, mạnh dạn làm chứng nhân về sự Chúa sống lại, lên Trời, trước công chúng từ bốn phương kéo về nhân ngày lễ "Năm Mươi" (Act 2, 1-4). Theo các nhà hộ giáo, Phục sinh và Hiện xuống là hai sự kiện quan trọng trong việc khai sinh Giáo Hội. Nếu Chúa không sống lại như lời tiên báo, người ta sẽ không tin lời Chúa. Nếu Chúa Thánh Thần không đến, thì các Tông đồ, những chứng nhân của Chúa, sao có thể biến đổi từ người mộc mạc hèn nhát thành những nhà truyền giáo can đảm hăng hái, những nhà hộ giáo khôn ngoan thông minh được. - Nhưng các sử gia, vì chỉ nhìn vào những sự kiện bên ngoài, coi Giáo Hội là một thực thể xã hội và tôn giáo chăm lo việc phượng thờ Thiên Chúa và nghe theo lời giáo huấn của Chúa Kitô, nên chỉ chấp nhận Giáo Hội Công Giáo có vào khoảng sáu hay bảy năm sau cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, và sự thành lập đã được ghi chép trong sách Tông đồ Công vụ. Giáo Hội thành lập để nối tiếp công cuộc của Chúa Giêsu ở trần gian, ban đầu cũng đã sống và lớn lên trong dân Chúa kén chọn với những con người có một truyền thống từ bao thế hệ, để từ đây bành trướng khắp thế giới theo như ý muốn của Chúa: "Các con hãy đi rao giảng khắp muôn dân, làm phép Rửa cho mọi người nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy cho họ giữ hết mọi điều Ta đã truyền cho các con" (Mt. 28,19-20). 2. Chúa Giêsu Ðấng sáng lập Giáo Hội Công Giáo - Giáo Hồi Thời Phôi Thai ở Palestina Từ khi là một dân tộc được Thiên Chúa kén chọn, người Do-thái, dù là Pharisêu, Sađukê hay Asseni đều mang trong mình sự trông đợi Ðấng Cứu Thế. Cứ mỗi lần quốc gia họ lâm nguy hoặc dân chúng rơi vào cảnh nô lệ, lòng trông đợi lại nổi lên mạnh mẽ. Qua các thời đại, nhờ sự nhắc nhớ của các Tiên tri, họ càng ý thức rõ rệt hơn về chọn lựa mà Thiên Chúa đã giao ước với Tổ phụ họ. Lúc này sống dưới ách Ðế quốc La Mã, lòng trông đợi một lần nữa bị kích động mãnh liệt. Dựa theo lời Tiên tri, họ lý luận: "Thời gian trông đợi đã đầy", Tiên tri Ðaniel đã chẳng bảo là sau 69 "tuần năm", các đau khổ của Israel sẽ chấm dứt và Nơi Cực Thánh sẽ đón nhận Ðấng Kitô đó sao? (Ðan 9,20-27). Ðấng Cứu Thế sẽ là người thế nào? Người Do-Thái khi ấy không có một quan niệm rõ rệt và còn sai lầm nữa. Sống trong cảnh nô lệ áp bức, hầu hết họ cho rằng Ðấng Cứu Thế sẽ là vị anh hùng cứu quốc, trong tay có cả trăm ngàn binh sĩ. Ngài sẽ báo thù cho dân Ngài, "đập tan các thù địch như đập bình gốm". Ngài sẽ thống trị muôn dân, mở đầu cho thời huy hoàng của Israel. Như vậy, họ đã quên đi lời Tiên tri Isaia nói về Chúa Cứu Thế sẽ phải chịu đau khổ và nhục nhã (Is 43). Giữa lúc dân Do-Thái nóng lòng mong đợi đó, Ðức Giêsu Kitô đã sinh ra ở Bêlem xứ Giuđêa, Triều vua Hêrôđê, cũng là thời Hoàng đế Augustô vừa ban hành lệnh kiểm tra dân số trong cả thiên hạ. Sau khi sinh ra được ít lâu, thánh Giuse và Ðức Mẹ Maria đem Chúa Giêsu đi trốn bên Aicập để tránh bàn tay tìm giết của Hêrôđê. Ông này chết, hai ông bà đưa Chúa Giêsu trở về quê quán và sống đời ẩn dật ở Nazarét bằng nghề thơ mộc. Năm 30 tuổi, Chúa Giêsu bắt đầu đời sống công khai, nhưng trước đấy, Gioan đã làm Tiền hô dọn đường cho Người. Bắt đầu Chúa Giêsu giảng Phúc Âm ở xứ Giuđêa, tỏ ra cho dân chúng biết chính Người là Ðấng Kitô các Tiên tri báo trước, nhưng họ không tin. Sau khi Gioan bị bắt, Người bỏ Giuđêa sang xứ Galilêa, tiếp tục rao giảng Nước Trời, làm nhiều phép lạ, chữa người bệnh tật, cho kẻ chết sống lại, xua đuổi quỷ ám... Tin Mừng của Chúa được trình bày nhất là trong bài giảng trên Núi. Người đem đến cho nhân loại nguồn hạnh phúc thực sự, và luật của Người là luật tình yêu, một tình yêu mới và hoàn hảo. Qua những bài giảng Dụ Ngôn về Nước Trời, Chúa Giêsu cho chúng ta biết Tin Mừng và công cuộc Cứu Thế của Người không hạn hẹp trong vùng Palestina, nó phải lan tràn đi các nơi và qua mọi thời đại, đó là lý do khiến Người nghĩ đến việc lập Giáo Hội. Ngay từ khi đời sống công khai bắt đầu, Chúa Giêsu đã để ý kêu gọi nhiều môn đệ. Người chọn 12 Tông đồ, ban cho các ông quyền chữa bệnh tật, trừ quỷ ám và sai đi giảng Tin Mừng ở các miền xung quanh. Chúa Giêsu còn đặt Phêrô làm Tông đồ trưởng: "Con là Phêrô, nghĩa là đá, Ta sẽ xây Giáo Hội Ta trên đá này, dù quyền lực hỏa ngục tung ra cũng không thể phá nổi. Ta sẽ trao chìa khóa Nước Trời cho con. Ðiều gì con cầm buộc ở dưới đất, trên Trời cũng cầm buộc, và mọi điều con tháo cởi dưới đất, trên Trời cũng tháo cởi" (Mt 18, 18-19). Nghe lời Chúa Giêsu giảng dạy, thấy phép lạ Chúa Giêsu làm, dân chúng tin theo rất đông. Nhóm Pharisêu thấy mình bị mất ảnh hưởng, nên ghen ghét Chúa Giêsu, nhất là họ bị Chúa Giêsu vạch trần sự giả hình và lối sống câu nệ; bởi vậy họ tìm cách làm hại Chúa Giêsu. Cả nhóm Sađukê cũng lo ngại trước ảnh hưởng của Chúa Giêsu trong dân chúng, họ sợ Người gây phong trào cách mạng chống La-mã, mà họ là những tay sai trung thành. Biết rằng cuộc tử nạn đã gần đến, Chúa Giêsu loan báo cho các Tông đồ biết và dọn lòng các ông đón nhận sự kiện đó. Dịp lễ "Vượt Qua" năm cuối cùng, Chúa Giêsu lên Giêrusalem và được dân chúng đón rước rất trọng thể, trong khi ấy những đàn anh lập mưu bắt Người. Ngày thứ năm trước lễ "Vượt Qua", Chúa Giêsu ăn bữa Tiệc Ly, lập phép Thánh Thể, cũng đêm ấy Giuđa bội phản dẫn lính đến bắt Chúa Giêsu. Ðứng trước Công nghị Do-Thái (Sanhédrin), Chúa Giêsu bị kết án tử hình; Toàn quyền Philatô thấy Người vô tội muốn tha, nhưng vì nhát sợ trước áp lực của dân chúng có các đàn anh xúi xiểm, Philatô đã y án tử hình ác. Trong suốt đêm thứ năm và sáng thứ sáu, Chúa Giêsu bị đánh đập và chịu xỉ nhục trước khi vác thập giá lên núi Calvariô. Chiều thứ sáu, lúc tắt thở trên Thánh Giá, màn ngăn cách nơi Cực Thánh trong Ðền Thờ xé ra làm hai báo hiệu thời Tân Ước trong lịch sử. Chúa Giêsu đã chết, nhưng khi còn sống Người đã tiên báo sau ba ngày sẽ sống lại. Lời đó Chúa Giêsu đã thực hiện trong 40 ngày ở lại trần thế, Người hiện ra với các Tông đồ, các môn đệ và nhiều người khác. Người hứa sai Thánh Thần đến với họ, làm họ trở nên những chứng nhân của Người không những ở Palestina mà còn cho tới cùng cõi trái đất. Ðồng thời Chúa đặt thánh Phêrô đứng đầu đoàn chiên, tức Giáo Hội của Người: "Con hãy chăn các chiên con và chiên mẹ của Ta" (Jo 21,17). Sau đó Chúa Giêsu lên Trời. Sau khi được chứng kiến Chúa Giêsu về Trời, các Tông đồ và môn đệ, khoảng 120 người, trở lại Giêrusalem hội họp trong nhà Tiệc Ly để cầu nguyện, trông đợi Chúa Thánh Thần, Ðức Mẹ Maria cũng có mặt với họ. Ngay từ lúc đầu Phêrô đã ý thức trách nhiệm đứng đầu điều khiển Giáo Hội của Chúa Giêsu. Ông đề nghị tìm người thay thế Giuđa tên phản bội nộp Thày. Trong số những chứng nhân cuộc đời của Chúa Giêsu, Matthias đã trúng thăm để liệt vào hàng 12 Tông đồ. "Bỗng từ Trời có tiếng ào ào như tiếng gió thổi mạnh lùa vào nhà, nơi các Tông đồ và môn đệ đang hội họp. Và mọi người thấy những hình lưỡi lửa phân chia ra và đậu trên đầu mỗi người. Hết thảy được đầy Thánh Thần và bắt đầu nói những tiếng lạ, làm theo như Thánh Thần ban cho để phát biểu" (Act 2,2-4). Giáo hội khai sinh từ đấy. 3. Giáo đoàn nguyên thủy Giêrusalem Hôm ấy, dịp lễ "Ngũ Tuần", dân Do Thái tụ họp ở Giêrusalem để mừng lễ rất đông. Nghe biết có điềm lạ, họ kéo nhau đến xem và gặp Phêrô đang giảng: "Giêsu Nazarét, Ðấng mà Thiên Chúa đã minh chứng bằng nhiều phép lạ... Ðấng mà họ đã đóng đinh treo trên thập giá. Người đã được Thiên Chúa cho sống lại, và chúng tôi là chứng nhân... Người đã ban Thánh Thần xuống cho chúng tôi như các ông thấy và nghe" (Act 2,22-23). Mọi người lấy làm lạ vì các Tông đồ nói nhiều thứ tiếng khác nhau và khi nghe các ông giảng, dù họ là người nói tiếng Partha hay Aicập, Kyrenê ha La Mã đều hiểu hết. Lời giảng và sự lạ ấy đã làm họ xúc động và 3,000 người trở lại: đó là giáo đoàn nguyên thủy. Giáo đoàn nguyên thủy mỗi ngày thêm đông. Lúc này vẫn toàn là người Do Thái, có người sinh trưởng ở Palestina nói tiếng Hy Bá (Do Thái), có người sinh quán ở những khu phân tán (diaspora) trong các miền thuộc Ðế quốc La Mã, nói tiếng Hy Lạp. Nhóm này phàn nàn vì trong việc phân phát của làm phúc, quả phụ của họ bị bỏ rơi. Thấy thế các Tông đồ đề nghị đặt chức Phó tế, để trông coi vấn đề vật chất. Giáo dân chọn bảy người và các Tông đồ đặt tay truyền chức cho họ. Trong số có hai nhân vật lỗi lạc là Stephan và Philippê quê ở vùng phân tán, có tài giảng thuyết và không bị trói buộc bởi những thành kiến Quốc gia như những người Do Thái sinh trưởng tại Palestina. Stêphan mở đầu một cuộc hộ giáo dựa theo các tài liệu Thánh Kinh, và kết luận bằng những lời lên án dân Do Thái: "Vì các người cứng đầu cứng cổ, lòng chai dạ đá, nên các người chống cự với Chúa Thánh Thần luôn". Những lời lẽ can đảm này đã đem lại cho thày Stêphan cái chết vì Ðạo đầu tiên như một phần thưởng. "Nghe những lời ấy, người Do Thái nghiến răng căm giận Stêphan, lại được nhà cầm quyền La Mã làm thinh, họ ném đá thày cho đến khi chết" (Act 6-8). Cái chết của Stêphan năm 34 mở đầu cuộc bách hại Giáo Hội ở Palestina. Saolô quê thành Tarsê là người hăng say bắt Ðạo hơn cả. Nhiều giáo dân phải bỏ Giêrusalem tản cư về các vùng quê ở Giuđêa hay Samaria, đi tới đâu họ truyền bá Ðạo tới đó. Như thế cuộc bách hại đã giúp mở rộng phạm vi ảnh hưởng của Kitô giáo, đem vào Cộng đồng phôi thai những phần tử mới, đó là những anh em dân ngoại, tức không phải Do Thái. Saolô, trong một lần tình nguyện dẫn đầu một toán lính võ trang của Công nghị Do Thái đi dẹp nhiều nhóm Kitô Giáo. Lúc đó vào khoảng gần trưa một ngày mùa hạ năm 35, "Khi Saolô gần tới Ðamas, bỗng có ánh sáng bởi Trời bao phủ ông: ông ngã xuống đất. Có tiếng phán: Saolô, Saolô, tại sao ngươi tìm bắt Ta? - Thưa Ngài, Ngài là ai? - Ta là Giêsu người đang bắt bớ. Song hãy chỗi dậy vào thành; người ta sẽ nói cho người biết phải làm gì" (Act 9,3-6). Saolô đứng dậy, mắt mở nhưng không thấy gì; ông được dắt vào thành, ở đó ba ngày liền không ăn uống. Một người đạo đức tên là Anania được Chúa sai đến khuyên bảo, chửa mắt và rửa tội cho Saolô. Ngay sau đó, Saolô đi tiếp xúc với giáo đoàn Ðamas và vào Giáo đường rao giảng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. (Trích từ tập sách Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo của Linh Mục Bùi Ðức Sinh - ) Sự Nghiệp Truyền Giáo tại Việt Nam (1533-1960) A. Những Nhà Truyền Giáo Ðến Việt Nam I. Những Nhà Truyền Giáo Ðầu Tiên Ðến Việt Nam Căn cứ theo tài liệu Lịch Sử Dân Sự Quốc Gia Khâm Ðịnh Sử đã một lần ghi nhận: "Năm Nguyên Hòa nguyên niên, tức đời vua Lê Trang Tôn, năm 1533 đã có người Tây tên là Inekhu đi đường bể vào giảng đạo Thiên Chúa ở làng Ninh Cường, làng Quần Anh thuộc huyện Nam Châu (tức Nam Trực) và ở làng Trà Lũ huyện Giao Thủy". Rất tiếc là những chi tiết liên hệ tới Inekhu (có lẽ được phiên âm từ Inigo - tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là Inhaxiô) ngày nay không còn được ghi nhớ, và do đó không ai biết rõ về tông tích, cũng như về công cuộc truyền đạo của vị thừa sai thứ nhất này. Theo Linh Mục Marcos Gispert, O.P., nhà sử học dòng Anh Em Thuyết Giáo đã sống tại Việt Nam 34 năm trời, sau Inekhu còn một số nhà truyền giáo khác như: - Linh Mục Gaspar de S. Cruz: năm 1550 từ Malacca đổ bộ lên Hà Tiên và sau đó từ cửa biển Bà Rịa đi Quảng Ðông. - Hai Linh Mục Lopez và Acevedo: năm 1558 đã tới giảng vùng Cao Miên 10 năm. - Hai Linh Mục Luis de Fonseca, O.P. (Bồ) và Grégoire de la Motte, O.P. (Pháp) cũng từ Malacca tới, suốt 6 năm đi truyền đạo tại Quảng Nam đời Chúa Nguyễn Hoàng vào thời gian 1580-1586. Chính quân đội Nguyễn Hoàng đã giết Linh Mục de Fonseca trong khi ngài hành lễ, còn Linh Mục Grégoire de la Motte về sau cũng chết vì bị trọng thương. II. Những Nhà Truyền Giáo Dòng Tên Ðến Việt Nam Rồi đến lượt các Linh Mục Dòng Tên: theo chân thánh Phanxicô Xaviê truyền đạo tại Nhật Bổn (1549), bị Hoàng Ðế Daifusama trục xuất khỏi đất Phù Tang năm 1614, kéo nhau về tập trung tại trụ sở Macao (khác nào như một đầu cầu thành lập từ năm 1564). Làm sao kìm hãm được sự hăng say của những nhà truyền giáo. Ngày 15/1/1615 hai Linh Mục Buzomi và Diego Carvalho cùng ba thày giúp việc tới Ðà Nẵng. Sau đó ngày 15/1/1627 - nhằm ngày lễ kính thánh Giuse - Linh Mục Alexandre de Rhodes (Ðắc Lộ) đã cập bến Cửa Bạng (Thanh Hóa) tiếp tay cho các bạn đồng nghiệp. Và từ đó phát triển sự nghiệp truyền đạo không những bằng mục vụ thường xuyên, nhưng nhất là bằng cách hoàn bị việc thành lập chữ Quốc Ngữ - chúng ta đang có ngày nay - để phổ biến sự truyền bá Ðức Tin, và tổ chức Nhà Ðức Chúa Trời (1629), tức là tập trung khắp nơi từng nhóm thanh thiếu niên (hay cả người đã đứng tuổi) thiện chí, sống đời độc thân và cùng với các Linh Mục - trong giáo xứ hay là trong các nơi xa xôi hẻo lánh - chia sẻ việc truyền đạo, nhất là chuyện dạy giáo lý cho dân chúng. Các Linh Mục Dòng Tên ở lại Việt Nam cho tới năm 1788. Vắng bóng đi trong một thời gian lâu 169 năm (1788-1957). Nhưng rồi Giáo Hội Việt Nam yêu cầu các ngài trở lại năm 1957, để ngày 13/9/1958 nhận trách nhiệm điều khiển Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X tại Ðà Lạt, đồng thời khuyếch trương nhiều hoạt động khác nhau trong lãnh vực văn hóa xã hội. III. Hội Thừa Sai Paris (Les Missions Etrangeres de Paris) Ðến Việt Nam Ngày 3/7/1645 Linh Mục Alexandre de Rhodes (Ðắc Lộ) rời Việt Nam về giáo đô Roma báo cáo cho Tòa Thánh về những tiến triển mau chóng trong việc truyền đạo tại Việt Nam, nhất là xin gửi một số Giám Mục đến cánh đồng phì nhiêu này để củng cố nền móng Giáo Hội. Ngài được Roma cho phép rảo khắp đất Pháp đi tìm những ơn kêu gọi, tìm những Linh Mục sẵn sàng xung phong và tiếp tục công việc đã khởi sự với nhiều thành quả may mắn: tại đây mới có Hội Thừa Sai Paris. Hội ra đời năm 1660 và được chấp nhận năm 1664 đời Ðức Giáo Hoàng Alexandrô VII. Cũng vị Giáo Hoàng này đã ký sắc lệnh bổ nhiệm hai Giám Mục đầu tiên cho Viễn Ðông: Ðức Cha Phanxicô Pallu và Ðức Cha Lambert de la Motte. Hội Thừa Sai Paris có công lớn với Giáo Hội Việt Nam bằng cách: - Ðã triệu tập Hội Nghị Mục Vụ đầu tiên: ngày 14/2/1670 tại Ðình Hiến tỉnh Nam Ðịnh, Ðức Cha Lambert de la Motte đã qui định thể chế Nhà Ðức Chúa Trời, và thành lập Dòng Mến Thánh Giá Việt Nam: các chị em Nữ Tu là những cộng tác viên rất đắc lực của hàng Giáo Phẩm trong việc truyền đạo bên cạnh giáo dân, nhất là trong các vùng thôn quê. - Ðã xây dựng Ðại Chủng Viện Penang (1870) để đào tạo các linh Mục bản xứ Á Châu và Việt Nam: các thánh Linh Mục Tử Ðạo miền Nam đều xuất thân từ đây; và suốt ba thế kỷ đã sống chết với Giáo Hội địa phương cho tới sáng 12/8/1975, ngày mà các vị Thừa Sai Ngoại Quốc sau cùng được mời ra khỏi Việt Nam. IV. Dòng Anh Em Thuyết Giáo (Dòng Ða Minh) Ðến Việt Nam Theo lời mời của Ðức Cha Phanxicô Pallu vì những đòi hỏi rất khẩn trương tại Việt Nam: số tín hữu tân tòng tiếp tục gia tăng, Linh Mục Giám Tỉnh Dòng Anh Em Thuyết Giáo Felipe Pardo, O.P., từ Manila đã phái hai Linh Mục Juan de Santa Cruz và Juan Arjona đi lối Trung Linh (Bùi Chu) lên Phố Hiến (Hưng Yên) ngày 7/7/1676. Các ngài vẫn hoạt động chung với Hội Thừa Sai Paris cho tới thập năm 1659 Ðức Alexandro VII ban sắc lệnh thành lập hai Giáo Phận đầu tiên: Ðàng Trong và Ðàng Ngoài (Nam và Bắc: lấy con sông Gianh làm biên giới). Năm 1679 Ðức Innocenxio XI lại chia Giáo Phận Ðàng Ngoài thành hai: Tây Ðàng Ngoài (từ sông Hồng Hà tới ranh giới Ai Lao) trao cho Hội Thừa Sai Paris dưới quyền quản nhiệm Ðức Cha de Bourges, và Ðông Ðàng Ngoài (từ tả ngạn sông Hồng Hà chạy ra biển): lúc ban đầu cũng do Giám Mục Deydier của Hội Thừa Sai Paris phụ trách. Năm 1693 Giám Mục Deydier qua đời, Ðức Cha De Bourges xin Tòa Thánh trao giáo phận này cho Dòng Thánh Ða Minh, vì từ 20/8/2679 tất cả số nhân sự của Dòng đã tập trung về đây. Ðồng thời, Cha Tổng Quyền Dòng Anh Em Thuyết Giáo sát nhập các cơ sở truyền giáo của Hội Dòng tại Bắc Việt hồi đó vào Tỉnh Dòng Ðức Mẹ Mân Côi tại Phi Luật Tân. Từ Nhà Tổng Quyền S. Sabina (tại Roma) cha Raimondo Lezoli, O.P., được Thánh Bộ Truyền Giáo đề cử sang tiếp tay với cha Juan de Santa Cruz hồi đó đang ở Trung Linh, về sau Tòa Thánh yêu cầu ngài chính thức lãnh trách nhiệm tất cả miền Ðông. Ngày 2/2/1702 tại Kẻ Sặt cha Raimondo Lezoli được thụ phong Giám Mục tiên khởi của Dòng Ða Minh tại Bắc Việt. Nền móng vững chắc Ða Minh đã được xây dựng trên mảnh đất Việt Nam, và một trong những hạt giống Dòng Thuyết Giáo đã gieo sâu trong lòng dân tộc bản xứ, tức là sự tôn sùng tràng hạt Ðức Mẹ Mân Côi vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay. Ngày 18/3/1967, tức 291 năm sau (1676-1967), Cha Bề Trên Tổng Quyền Aniceto Fernandez tuyên bố: đã tới thời gian tách rời Việt Nam ra khỏi Phi Luật Tân, và thành lập Tỉnh Dòng Anh Em Thuyết Giáo riêng biệt với danh hiệu Tỉnh Dòng Nữ Vương Các Thánh Tử Ðạo Việt Nam. V. Những Hội Dòng Khác Ngoài mấy Hội Dòng lớn kể trên đây - đã sống chết với Giáo Hội Việt Nam - còn hai Hội Dòng khác cũng đến truyền đạo tại xứ sở chúng ta: 1. Dòng Anh Em Thánh Augustinô (Augustiniani Scalzi): Hoạt động tại Bắc Việt, tuy nhiên chỉ trong vòng hơn 60 năm (1701-1765): 15 vị Thừa Sai Ngoại Quốc - trong đó có Giám Mục Ilario Costa di Gesu (1735-1754) - 6 Linh Mục Việt Nam, và 2 Linh Mục khác, người Bồ, thường xuyên ở Cửa Hàn, làm tuyên úy cho cộng đoàn nhỏ bé người Bồ Ðào Nha phần nhiều là những thương gia đi qua đi lại, hay là trú ngụ tại đó từ trước năm 1596. 2. Dòng Phanxicô khó nghèo (Ordo Fratrum Minorum: OFM): Từ năm 1583 đã có vết chân hai Giáo Sĩ P. Alfara và B. Ruyz tại miền Nam Việt Nam, nhưng vì gặp rất nhiều khó khăn nguyên do từ cạnh tranh giữa hai khối Bồ Ðào Nha và Tây Ban Nha, việc truyền đạo của Dòng Phanxicô bị gián đoạn và sau cùng bị bỏ dở. Mãi đến năm 1711 Dòng Phanxicô trở lại hoạt động tại giáo phận Ðàng Trong (một nửa tỉnh Ðồng Nai và kiêm luôn Cao Miên). Nhưng thời cuộc lúc đó cũng không may mắn hơn trước: - Một đàng số giáo sĩ Bồ Ðào Nha - quá nương tựa vào ảnh hưởng Hoàng Gia nước Bồ - không chịu nhận quyền hành của hàng Giáo Sĩ do Tòa Thánh Roma trực tiếp bổ nhiệm; - Ðàng khác sự bất đồng ý kiến giữa các Hội Thừa Sai về vấn đề "thờ cúng tổ tiên" và một vài phong tục cổ truyền: Dòng Tên và Dòng Phanxicô tán thành, trái lại Hội Thừa Sai người Pháp chống đối. Ðức Clemente XIII năm 1738 đã cử phái đoàn do Giám Mục De La Baume sang tận nơi điều tra và ổn định tình thế. - Sau cùng, vào năm 1750, Võ Vương (Nguyễn Phước Khoát 1725-1765) đột nhiên ra lệnh đuổi hết Giáo Sĩ ngoại quốc ra khỏi lãnh thổ. Tất cả 28 Giáo Sĩ bị lùng bắt và hạ ngục, trong số đó Giáo Sĩ Michel de Salamanque (thuộc Dòng Phanxicô Tây Ban Nha) chết rũ tù ngày 14/7/1750. Trong Việt Nam Công Giáo Niên Giám còn kể thêm: vị Thừa Sai sau cùng Dòng Phanxicô là Thánh Odoric De Collodi - bị giam đồng thời với hai Thánh Gagelin và Jaccard thuộc Hội Thừa Sai Paris - ngày 23/5/1834 đã tắt thở trong ngục Lao Bảo "buồn vô hạn vì không được lấy máu đào làm chứng cho Chúa Giêsu". Như thế Dòng Phanxicô đã hoạt động hơn một thế kỷ (1711-1833), có cả một Giám Mục: Ðức Cha Valeriô Rist (1737). Sau đó vắng đi một thời gian (gần một thế kỷ nữa) năm 1929 Ðức Cha A.J. Eloy, Giám Mục giáo phận Vinh, được sự chấp thuận của Bộ Truyền Giáo và Bộ Tu Sĩ, đã đặt giấy mời các Cha Dòng Thánh Phanxicô trở lại Việt Nam. Ngày 21/11/1929 Giáo Sĩ Maurice Bertin và một số Tu Sĩ Dòng Phanxicô đã lên bến Ðà Nẵng, và đặt cơ sở đầu tiên tại thị xã Vinh ngày lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội: 8 tháng 12 năm 1931. Chúng ta thấy công trình truyền đạo từ lúc khai nguyên với hai giáo phận Ðàng Trong và Ðàng Ngoài (1659) suốt ba thế kỷ đã phát triển không ngừng. Ngày nay đã thành 25 giáo phận (10 ngoài Bắc và 15 trong Nam). B. Những Giáo Phận của Việt Nam từ thuở ban đầu - Ngày 9/7/1659: Ðức Thánh Cha Alexandre VII ban sắc bổ nhiệm hai linh mục Francois Pallu và Lambert de la Motte làm Giám Mục Tiên Khởi hai giáo phận đầu tiên tại ViệtNam: + Giáo Phận Ðàng Trong: từ sông Gianh trở vào Nam, bao gồm Cao Miên và Chiêm Thành, trao cho Ðức Cha Pallu + Giáo Phận Ðàng Ngoài: từ sông Gianh trở ra Bắc và miền Nam Trung Hoa, trao cho Ðức Cha Lambert de la Motte. - Ngày 31/1/1668: tại Juthia kinh đô Thái Lan, Ðức Cha Lambert de la Motte tấn phong linh mục cho 4 thày giảng: Cha Giuse Trang và Luca Bền, thuộc giáo phận Ðàng Trong; cha Gioan Huệ và Benedictô Hiền, thuộc giáo phận Ðàng Ngoài. Ðây là 4 vị linh mục tiên khởi của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. - Năm 1669: Ðức Cha lambert de la Motte tấn phong thêm 7 vị linh mục Việt Nam. - Năm 1670: Ðức Cha lambert de la Motte chuẩn y thành lập Dòng Mến Thánh Giá cho các nữ tu Việt Nam. - Năm 1678: Ðức Cha Pallu từ Thái Lan về Rome, đề nghị tấn phong giám mục cho 6 linh mục trong số các linh mục tiên khởi. Tiếc rằng đề nghị này đã bị Tòa Thánh bác bỏ. - Năm1679: Giáo Phận Ðàng Trong tách rời thành hai giáo phận mới, lấy sông Hồng Hà làm ranh giới. Hai giáo phận Ðàng Ngoài gồm 2 giám mục, 7 vị thừa sai Pháp, 11 linh mục Việt Nam và hơn 200,000 tín hữu: + Giáo Phận Ðông Ðàng Ngoài (Hải Phòng): từ sông Hồng Hà và các tỉnh ven biển, trao cho Ðức Cha Deydier đảm nhiệm. + Giáo Phận Tây Ðàng Ngoài (Hà Nội): từ sông Hồng đến biên giới Ai Lao, đặt dưới sự cai quản của Ðức tân Giám Mục De Bourges. -Năm 1693: Ðức Cha Deydier (Giáo Phận Ðông Ðàng Ngoài) mất, Ðức Cha De Bourges phải cai quản hai giáo phận. Vì tình trạng thiếu hụt Thừa Sai, nên Ðức Cha De Bourges đã nhượng địa phận Ðông cho Dòng Ða Minh, trụ sở tại Manila (Phi Luật Tân). - Năm 1844: Ðức Thánh Cha Grégoire XVI chia giáo phận Ðàng Trong thành hai giáo phận mới: + Giáo Phận Bắc Ðàng Trong (Qui Nhơn): do Ðức Cha Cuenot Thể đảm nhiệm; + Giáo Phận Nam Ðàng Trong (Sàigòn): trao cho Ðức tân Giám Mục D . Lefebre Ngãi. - Năm 1846: Giáo Phận Tây Ðàng Ngoài được cắt để thành lập Giáo Phận Vinh. Tân giáo phận bao gồm Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh và một phần tỉnh Quảng Bình, được ủy thác cho Ðức Cha J. Gauthier Hậu. - Năm 1848: Tòa Thánh thiết lập thêm địa phận mới gồm hai tỉnh Nam Ðịnh và Hưng Yên, tách rời từ Giáo Phận Ðông để thành lập Giáo Phận Bùi Chu (Trung). Tân Giáo Phận được giao cho Ðức Cha D. Martin Gia cai quản. - Năm 1850: Tòa Thánh cắt giáo phận Bắc Ðàng Trong gồm các tỉnh Quảng Bình, Thừa Thiên, Quảng Trị để thành lập Giáo Phận Huế, và đặt Ðức Cha Pellerin (Phan) cai quản. - Năm 1850: Giáo Phận Nam Vang tách rời từ giáo phận Sàigòn và trao lại cho Ðức Cha J. Michel Mịch. - Năm 1883: Giáo Phận Bắc Ninh được thành lập, tách rời từ giáo phận Hải Phòng, và bao gồm các tỉnh Bắc Ninh, Thái Nguyên, Lạng Sơn và Cao Bằng. Tân giáo phận trao cho Ðức Cha Colomer Lễ. - Năm 1895: Giáo Phận Hưng Hóa gồm các tỉnh Sơn Tây, Yên Bái, Hòa Bình và Lai Châu được thành lập. Tân giáo phận trao lại cho Ðức Cha Paul Maris Raymond. - Năm 1901: Giáo Phận Phát Diệm (Thanh) được thành lập gồm hai tỉnh Thanh Hóa và Ninh Bình. Tân giáo phận tách rời từ giáo phận Hà Nội, và đặt dưới sự cai quản của Ðức Cha Alexandre Marcou Thành. - Năm 1913: Hạt Phủ Doãn Lạng Sơn được thành lập, tách rời từ giáo phận Bắc Ninh và được ủy thác cho các vị thừa sai dòng Ða Minh Lyon đảm trách. - Năm 1932: Giáo Phận Thanh Hóa gồm các tỉnh Thanh Hóa và Sầm Nứa (Ai Lao) được thiết lập. Tân giáo phận tách rời từ giáo phận Phát Diệm, và đặt dưới sự cai quản của Ðức Cha Louis de Cooman Hành. - Năm 1932: Giáo Phận Kontum được thành lập, bao gồm 3 tỉnh Kontum, Darlac, Pleiku; tân giáo phận tách rời từ địa phận Qui Nhơn và đặt dưới sự hướng dẫn của Ðức Cha Jannin Phước. - Ngày 11/6/1933, tại Ðền Thánh Phêrô (Rome), Ðức Thánh Cha Piô XI đã tấn phong vị Giám Mục tiên khởi cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam là Ðức Cha Baotixita Nguyễn Bá Tòng. Ngài là Giám Mục phó với quyền kế vị giáo phận Phát Diệm. - Năm 1935: Ðức Cha Ða Minh Hồ Ngọc Cẩn, vị giám mục thứ hai Việt Nam được tấn phong tại nhà thờ Phú Cam (Huế). Ngài là Giám Mục phụ tá với quyền kế vị giáo phận Bùi Chu. - Năm 1936: Giáo Phận Thái Bình được thiết lập, tách rời từ giáo phận Bùi Chu, bao gồm hai tỉnh Thái Bình, Hưng Yên. Tân giáo phận đặt dưới sự cai quản của Ðức Cha Cassado Thuận. - Năm 1938: Giáo Phận Vĩnh Long gồm các tỉnh Vĩnh Long, Bến Tre (Kiến Hòa) và Trà Vinh (Vĩnh Bình). Tân giáo phận tách rời từ giáo phận Sàigòn và trao cho Ðức Cha Phêrô Martino Ngô Ðình Thục. Ngài được tân phong vào ngày 4/5/1938 tại Huế, do Ðức Khâm Sứ Tòa Thánh tại Việt Nam là Ðức Cha Drapier chủ sự. - Năm 1939: Giáo Phận Lạng Sơn: Hạt Lạng Sơn được Tòa Thánh nâng lên hàng Giáo Phận, và trao cho Ðức Cha Felix (Minh ) quản nhiệm. - Năm 1940: Thêm một vị giám mục nữa được tấn phong là Ðức Cha Gioan Maria Phan Ðình Phùng. Ngài là Giám Mục phụ tá với quyền kế vị địa phận Phát Diệm. - Năm 1944: Ðức Cha Gioan Maria Phan Ðình Phùng tạ thế. Cố giám mục sinh tại làng Kiến Thái, Kim Sơn (Phát Diệm). Sau khi hoàn tất học vấn tại chủng viện Phúc Nhạc, Ngài du học tại Giáo Hoàng Học Viện Penang, thụ phong linh mục ngày 5/4/1924 và được đề cử làm giáo sư chủng viện Penang cho đến năm 1940, và được Tòa Thánh tấn phong Giám Mục vào ngày 3/12/1940. Ngài mất đột ngột vào ngày 28/5/1944 tại tu viện Châu Sơn, Nho Quan. - Năm 1945: Sau đệ nhị thế chiến, Tòa Thánh lưu tâm đến việc tuyển chọn hàng giáo sĩ Việt Nam lên phẩm trật Giám Mục để lèo lái con thuyền giáo hội Việt Nam. Tòa Thánh bổ nhiệm giám mục mới: Ðức Cha Anselmo Lê Hữu Từ, bấy giờ đang là Bề Trên Ðan Viện Xitô Phước Sơn (Nho Quan). Ngài là vị giám mục thứ năm người Việt Nam. - Năm 1948: Ðức Cha Ða Minh Hồ Ngọc Cẩn từ trần. Cố giám mục sinh ngày 3/12/1876 tại Ba Châu (Huế), theo học tiểu chủng viện An Ninh (Quảng Trị), đại chủng viện Phú Xuân (Huế). Ngài thụ phong linh mục ngày 20/12/1902, sau đó lần lượt giữ chức cha phó xứ Kẻ Văn, chánh xứ Kẻ Hạc, giáo sư chủng viện An Ninh (1910). Năm 1935, Ðức Cha Monagorri mất, Ðức Cha Ða Minh chính thức nhận quyền Giám Mục Bùi Chu. Ðức Cha Ða Minh mất ngày 27/11/1948 tại Bùi Chu sau 12 năm cai quản giáo phận. - Năm 1950: Ðức tân Giám Mục Ða Minh Hoàng Văn Ðoàn được tấn phong Giám Mục tại Rome ngày 3/9/1950, và nhận quyền Giám Mục giáo phận Bắc Ninh. - Năm 1950: Ðức Cha Giuse Maria Trịnh Như Khuê được tấn phong Giám Mục, và đảm nhận địa phận Hà Nội. - Năm 1950: Ðức Cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi được tấn phong Giám Mục và đảm nhận giáo phận Bùi Chu. - Năm 1950: Ðức Cha tiên khởi Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng tạ thế. Ngài sinh ngày 7/8/1868 tại Gò Công, theo học các trường các thày dòng tại Ðịnh Tường đến năm 1880. Sau đó Ngài được gửi theo học tại Ðại Chủng Viện Sàigòn. Ngày 19/9/1896, Ðức Cha Depiere tấn phong linh mục cho cha Gioan Baotixita và chọn người làm thư ký Tòa Giám Mục. Trước khi được tấn phong giám mục, ngài lần lượt giữ chức cha sở họ Tân Ðịnh, Bà Rịa. Năm 1935, Ðức Cha Marcou Thành từ chức, trao quyền Giám Mục giáo phận Phát Diệm cho Ðức Cha Nguyễn Bá Tòng. Ðây là giáo phận thứ nhất được ủy thác cho hàng giáo sĩ Việt Nam. - Năm 1951: Giáo phận Vinh trao cho đức tân Giám Mục Baotixita Trần Hữu Ðức. - Năm 1953: Ðức Cha Giuse Trương Cao Ðại nhận quyền Giám Mục giáo phận Hải Phòng. Ðức tân giám mục sinh ngày 4/6/1913 tại làng Tiền Môn, An Lập, Thái Bình. Năm 1927, ngài theo học tại tiểu chủng viện Ninh Cường, sau đó tại Giáo Hoàng Học Viện Nam Ðịnh. Năm 1936, ngài được gửi sang học ở Ða Minh Học Viện tại Hương Cảng, sau đó tại Manila (Phi Luật Tân) và đậu tiến sĩ tại đại học Thánh Thomas. Năm 1953, Tòa Thánh chọn ngài làm giám mục cai quản địa phận hải Phòng, nhưng được hơn một năm thì phải di cư vào Nam. Ngài định cư tại Madrid (Tây Ban Nha) và mất tại đó vào năm 1955. - Năm 1955: Giáo Phận Cần Thơ được thành lậop và được giao cho đức tân Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình. Ngài sinh tại Tân Ðịnh ngày 1/9/1910, gia nhập tiểu chủng viện Sàigòn năm 1922. Năm 1932, Ðức Cha Dumortier gửi ngài qua Rome theo học trường Truyền Giáo, và thụ phong linh mục năm 1937. Trước khi Tòa Thánh chọn Ngài làm Giám Mục, cha Bình lần lượt giữ các chức vụ như: giáo sư chủng viện (1943), tuyên úy các sư huynh Sàigòn. Năm 1948, thực hiện tờ báo Tông Ðồ, cha xứ họ Cầu Ðất. Ngày 20/9/1955, Tòa Thánh chọn ngài làm Giám Mục cai quản tân giáo phận Cần Thơ. Năm 1960, Ðức Cha Bình thuyên chuyển về Sàigòn và làm Tổng Giám Mục địa phận Sàigòn cho đến ngày qua đời. - Năm 1955: Ðức Cha Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền được tấn phong Giám Mục, và đảm nhận giáo phận Sàigòn, thay thế Ðức Cha Cassaige Sanh từ chức để đi làm tuyên úy Trại Cùi Di Linh. - Năm 1957: Tòa Thánh cắt hai tỉnh Khánh Hòa và Ninh Thuận (thuộc địa phận Qui Nhơn) và hai tỉnh Bình Thuận và Bình Tuy (thuộc địa phận Sàigòn) để thiết lập Giáo Phận Nha Trang. Tân giáo phận này trao cho Ðức Cha Piquet Lợi. (Các tài liệu được trích dẫn từ: - tập sách Giáo Hội Việt Nam của Ðức Ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ, - bài Tìm Hiểu Giáo Hội Việt Nam của Nguyễn Vũ Tuấn Linh) Prepared for internet by Vietnamese Missionaries in Taiwan Vài Dòng Lịch Sử Tử Đạo & Giáo Hội VN Trong sắc lệnh tôn phong các vị Tử Đạo Việt Nam năm 1900, ĐTC Lêô XIII đã tuyên bố các Ngài là "đội hùng binh" thuộc mọi giai cấp xã hội, đã can trường chấp nhận chịu mọi cực hình, không kém các vị Tử Đạo thời sơ khai. Lời so sánh trên đây giữa Giáo Hội tại Việt Nam và Giáo Hội Rôma không những chỉ đúng khi nói tới lòng qủa cảm của các vị Tử Đạo, mà còn đúng cả về sự thực qua qúa trình lịch sử của cả hai dân tộc. Cũng như Giáo Hội tại Rôma, chỉ ít khi năm sau hai vị Tông Đồ Cả Phêrô và Phaolô gieo rắc hạt giống Đức Tin, đã bị bách hại suốt 300 năm, Giáo Hội tại Việt Nam vừa nhận hạt giống Đức Tin vào năm 1544, đã bị những cuộc cấm đạo đẫm máu bọt nghẹt suốt ba thế kỷ. Có thể chia qua trình lịch sử Giáo Hội Việt Nam làm 4 thời kÿ chính: 1. Thời Kỳ Khai Nguyên (1533-1659) Cuối thế kỷ XV, các nhà thám hiểm đã đặt chân tới những miền xa xăm trước đây chưa ai biết đến. Họ đi vòng quanh thế giới, theo sau là các nhà buôn với những thương thuyền hùng hậu nhất thời đó của Tây Ban Nha và Hoà Lan. Các ông chủ mặt biển này đã vượt trùng dương sang tận vùng Đông Nam Á để buôn bán hàng hoá và thương mại. Trong điều kiện giao thông này đã giúp các Thừa Sai Công Giáo thực hiện được mộng ước của họ là mang Tin Mừng đến tận chân trời xa xăm và vào Việt Nam, giữa thời kÿ Đất Nước đang bị phân hoá vì nội chiến. Đầu thế kỷ XVI Nhà Lê bắt đầu suy tàn với lớp gian thần và hôn quân như vua Lê Vi Mục và vua Lê Tương Dực. Năm 1527, lấy danh nghĩa phò vua Lê Chiêu Tông, quyền thần Mạc Đăng Dung dẹp nội loạn trong Triều rồi cướp ngôi nhà Lê, lập ra Nhà Mạc. Bấy giờ ông Nguyễn Kim (con cựu thần Nguyễn Hoàng Dụ) đang ở biên trấn, ông chiêu mộ quân binh cùng các chiêu thần nhà Lê đứng lên diệt Mạc dựng lại Nhà Lê. Không bao lâu, Nguyễn Kim lấy lại được đất Thanh Hoá trở vào Thuận Hoá, dựng lại nhà Lê. Đất nước lại chia đôi thành Nam, Bắc Triều. Họ Mạc hùng cứ từ Ninh Bình trở ra Bắc lại được Nhà Minh Trung Hoa che chở để phân hoá Đại Việt. Ít lâu sau, tướng Nguyễn Kim bị tên hàng tướng của nhà Mạc đầu độc chết, con rể ông là Trịnh Kiểm thay thế tiếp tục phò Lê, Bắc tiến. Năm 1583, Trịnh Kiểm lấy lại Thăng Long rước vua Lê về kinh đô lên ngôi chính vị. Tuy nhiên , họ Trịnh từ lâu đã có ý cướp ngôi nhà Lê. Để trừ hậu hoạ, Trịnh Kiểm mưu giết Nguyễn Uông là con Nguyễn Kim ý muốn cướp ngôi đã rõ, họ Trịnh còn cho người đến gặp Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm xin vấn kế. Trạng Trình không nói gì mà chỉ đọc một câu dụ ngôn ý khuyên Trịnh nên dựa vào cái hư vị vủa Nhà Lê mà hưởng công danh phú quý đời đời. Trịnh nghe theo nên chỉ xưng Vương, buộc Vua Lê phải phong Trịnh làm Thượng Phu, Tổng Quốc Chính, nắm trọn quyền bính trong tay, lập Phủ Chúa tức Phủ Liêu với nghi vệ của bậc Đại Vương còn Vua Lê chỉ còn là hư vị, chỉ được hưởng lương bổng do Chúa Trịnh quy định. Từ đó, nước Đại Việt có Vua lại có Chúa. Kế nghiệp Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng lên ngôi Chúa, quyền huynh thiên hạ, dồn họ Mạc lên Cao Bằng. Năm 1592, bắt được Mạc Hậu Hợp đem về Thăng Long chém đầu. Về họ Nguyễn thì sau khi anh là Nguyễn Uông bị giết, Nguyễn Hoàng dự đoán trước sau ông cũng bị hại, ông nhờ chị là Ngọc Bảo, vợ Trịnh Kiểm xin cho em vào trấn thủ Thuận Hoá, lại ngầm sai người đến vấn kế Trạng Trình thì Trạng chỉ vào hòn non bộ, nói: "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (một giải Hoành Sơn dung thân muôn đời). Nguyễn Hoàng được Vua Lê thuận cho vào phương Nam trấn thủ miền địa đầu của Đất Nước, ông về Thanh Hoá đem theo các thủ hạ thân tín, đồng hương cà các đồng tộc vào Quảng Trị, lập Dinh ở Ái Tử sau gọi là Chính Dinh, thủ phủ của phương Nam. Giai đoạn đầu, Nguyễn Hoàng vẫn giữ danh vị Trấn Thủ, được Vua Lê phong tước Công, ông củng cố Thuận Quảng, xây thành đắp luỹ sau ra mắt công khai chống Trịnh. Cuộc nội chiến Nam Bắc bùng nổ vào năm 1627, kéo dài 42 năm qua bảy trận đẫm máu, bất phân thắng bại, hai bên hưu chiến lấy sông Gianh làm giới hạn phân chia Nam Bắc. Mãi sau này vào đời Võ Vương Chúa Nguyễn mới xưng Vương lập ra triều chế riêng biệt song vẫn tôn Vua Lê và vẫn giữ quốc hiệu là Đại Việt. Từ đó, miền Bắc từ Quảng Bình trở ra gọi là Bắc Hà hay xứ Đàng Ngoài, từ Thuận Quảng trở vào Nam gọi là Nam Hà hay là Xứ Đàng Trong. Nhà Nguyễn làm Chúa phương Nam đến đời Nguyễn Phúc Dương chạy vào Gia Định, cả họ bị tàn sát, Nam Hà trọn vẹn rơi vào tay Tây Sơn. Chỉ còn lại một hoàng hôn duy nhất sống sót là Nguyễn Phúc Ánh lúc đó 15 tuổi, nhờ các Linh Mục Thừa Sai cho trốn ở trong nhà. Sau đó, Nguyễn Phúc Ánh gặp Giám Mục Bá Đa Lộc ở Hà Tiên, ông lên ngôi kế nghiệp tiên Vương năm 17 tuổi vào lúc Nam Hà đã mất trọn vào tay Tây Sơn. Năm 1786, Nguyễn Huệ ra Bắc diệt Trịnh phù Lê; hai năm sau, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế lấy hiệu là Quang Trung, đem quân Bắc Tiến đánh quân Thanh xâm lăng. Quang Trunng toàn thắng vào ngày mồng 5 Tết Kỷ Dậu 1789, Nhà Lê cáo chung sau 360 năm trị vì (1428-1788). Giáo Hội Việt Nam cũng trầm luân trong vận nước trôi nổi bởi thảm kịch Nam Bắc phân tranh lại thêm nạn Bách Đạo mỗi ngày thêm khốc liệt. TỈNH BẮC HÀ Không rõ năm nào hạt giống Đức Tin được gieo mầm trên đất nước Việt Nam, ngoại trừ niên đại lịch sử 1533, sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn ghi lại cho biết, giáo sĩ "Tây Dương" I-Ni-Khu đến giảng Đạo tại làng Ninh Cường, trấn Sơn Nam (nay thuộc Giáo Phận Bùi Chu). Năm 1578, Chính Sử mới thấy ghi, nhà Mạc tại Bắc Hà cho người sang tận Macao mời người Bồ Đào Nha qua cùng với các Thừa Sai. Nhưng Macao thiếu nhân sự, phải giới thiệu với Manila, xin gửi 4 Thừa Sai sang Việt Nam. Một trận bão lớn đã thổi các Ngài vào Hải Nam, sau cùng chỉ còn vị linh mục duy nhất là cha Ruitz vào giảng đạo năm 1585. Ba năm sau, Đức Giám Mục Macao mới cử 2 Thừa Sai là Alfonso da Costa và Juan Gonsalves qua kinh đô Nhà Lê (Lam Kinh) lúc ấy còn tạm đặt ở Thanh Hoá do lời mời của Công Chúa Chiêm, bấy giờ đang thay em còn nhỏ làm Nhiếp Chính. Năm 1590, mặc dù cả Triều Đình, Hoàng Thái Hậu và Vua Trang Tôn phản đối, Công Chúa Chiêm vẫn xin rửa tội theo Đạo, tục gọi là Bà Chúa Chèm tức Mai Hoa Công Chúa, cùng với trên 70 cung nhân và nữ tÿ vào Lam Kinh nơi xuất phát Nhà Lê, lập Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm. Đây là Dòng Nữ Tu đầu tiên ở Việt Nam, nhưng chỉ 3 năm sau các Giáo Sĩ lại bị Vua Lê trục xuất. Năm 1626, Trịnh Tráng lại mời các mời các Thừa Sai vào. Lần này Giáo Sĩ Đắc Lộ và Marquez được gửi qua. Dân Bắc Hà theo đạo rất đông, trong 3 năm đã có 6.700 tín hữu. Chị của chúa Trịnh và 17 người trong phủ Chúa cũng xin rửa tội. Chúa xây luôn nhà thờ cho các vị Thừa Sai. Nhưng năm 1629, Trịnh Tráng thất trận, ông đổi ý, hạ lệnh trục xuất 2 Giáo Sĩ. Các ngài ra đi để lạ 3 Thầy Giảng điều khiển hơn 7.000 giáo dân. Nhưng năm sau, các Thừa Sai lại được vào tiếp tục công việc truyền đỏo. Tính đến năm 1630, Bắc Hà đã có 414 nhà thờ với 350.000 giáo dân. TỈNH NAM HÀ Năm 1550, linh mục Thừa Sai Gaspar de Santa Cruz lập tu viện Đa Minh tại Malacca để rồi năm 1558 tu viện này gửi 2 Thừa Sai là Lopez và Azevedo qua Chân Lạp giảng đạo, được 10 năm thì bị trục xuất. Tới năm 1580 tu viện lại phái 2 cha Gregoire de la Motte và Luis de Fonseca sang. Những năm 1586, Chiêm Thành chiến thắng Nam Hà, bắt luôn 2 Thừa Sai về xử tử. Dù vậy, dòng Đa Minh tại Manila còn cố gắng 4 lần nữa gửi Giáo Sĩ vào Nam Hà, nhưng tất cả đều thất bại. Công việc truyền giáo tại đây chỉ đạt được căn bản vững chắc khi dòng Tên vào miền đất Chúa Nguyễn. Năm 1615 dòng Tên bị trục xuất khỏi Nhật. Các vịn này trở lại cứ điểm Macao và được phái qua Nam Hà. Linh Mục Buzomi và Carvallo vào cửa Hàn và rửa tội cho 10 người tại Quảng Nam nhân dịp lễ Phục Sinh năm đó. Cuối năm, các ngài đã cất 2 nhà thờ tại Hải Phố và tại Quảng Nam cho trên 300 giáo dân đọc kinh thờ phưẼng. Năm 1617, quan trấn Qui Nhơn có thiện cảm với Công Giáo, ông mời các Thừa Sai tới, xây cất nhà thờ cho giáo dân. Số tân tòng tăng gấp trăm và gồm đủ thành phần từ sư sãi đến trí thức, quan lại và bình dân. Người nổi tiếng nhất là bà Minh ĐỦc Vương Thái Phi, một vương phi rất sùng Phật, Bà theo Đạo và trở thành một nhà truyền giáo rất đắc lực. Tới năm 1665, Nam Hà đã có trên 50.000 giáo dân. Còn cha Đắc Lộ được mời vào Nam Hà chưa đầy 1 năm, đã bị quan trấn Quảng Nam trục xuất năm 1640. Sau 4 lần lén vào Nam Hà, Ngài đã phải gạt nước mắt vĩnh biệt giáo dân về Rôma năm 1645. Tại đây Ngài đã trình lên Đức Giáo Hoàng Innocentê X về nhu cầu cần thiết thành lập Hàng Giáo Phẩm tại Việt Nam. Chương trình này đã được Đức Giáo Hoàng Alexandro VII thực hiện ngày 29-7-1658, mở đầu cho kỷ nguyên mới của lịch sử truyền giáo tại Việt Nam. 2. Thời Thành Lập (1659-1888) Năm 1659, Đức Thánh Cha Alexandro thiết lập giáo phận Đàng Trong (Nam Hà) và giáo phận Đàng Ngoài (Bắc Hà), trao cho hai Đức Cha Francoise Pallu và Lambert de la Motte. Cả hai vị tìm cách vào Việt Nam và tổ chức cơ cở căn bản như họp Công Đồng, lập Dòng Mến Thánh Giá, Chủng Viện, và đặc biệt dồn hết tâm lực vào việc đào tạo Linh Mục Việt Nam. Cả hai giáo phận mới thành lập phải đương đầu với cơn bách hại khủng khiếp kéo dài cho tới năm 1888. Cuộc bắt đạo lúc đầu có vẻ thất thời tuÿ theo hứng của Vua Chúa. Nhưng tới khi Vua Gia Long nằm xuống năm 1820, các vua triều Nguyễn là Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức, vì tinh thần bài ngoại và lầm tưởng theo Đạo là bỏ ông bà tổ tiên, đã ra lệnh trên toàn quốc triệt hạ thánh đường, xử tử các Giáo Sĩ và tất cả những giáo dân nào bất tuân lệnh nhà Vua. Những hành động này đã đưa tới việc liên quân Pháp và Tây Ban Nha can thiệp vào nội bộ Việt Nam, ép buộc vua Tự Đức ký hoà ước nhận quyền bảo hộ của Pháp, đồng thời chấm dứt việc sát hại người Công giáo năm 1883. Nhưng trước khi cơn bão táp ngưng hẳn, nhóm Văn Thân tại vùng Thanh Nghệ Tĩnh Bình còn tổ chức một cuộc tàn sát tập thể những người Công Giáo trong vùng bằng cách bao vây đốt từng làng. Hơn 60.000 người đã hy sinh trong hai năm 1885-1886, nâng tổng số các vị anh hùng tử đạo lên tới 130 ngàn trong suốt ba thế kỷ cấm đạo. Mặc dù chui rúc trong hang hầm, lẩn trốn nơi rừng rú, người Công Giáo Việt Nam vẫn trung thành với Chúa, số tân tòng vẫn tiếp tục nâng cao. Trong thời kÿ này đã tăng lên 9 Giáo Phận là Sài Gòn, Qui Nhơn, Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Phòng, Bùi Chu, Vinh, Huế và Nam Vang (gồm Cao Mên và Hậu Giang). Số giáo dân còn sống sót vẫn gần 500 ngàn người. 3. Thời Phát Triển (1888-1933) Mặc dầu Tự Đức ký hiệp ước với Pháp năm 1884, nhưng máu tử đạo chỉ thực sự ngưng khi Hàm Nghi bị bắt vào năm 1888, làm cho phong trào Văn Thân sụp đổ theo, và Giáo Hội Việt Nam được hưởng thái bình để lo củng cố nội bộ và phát triển đời sống Đức Tin sâu rộng. Cả Giáo Sĩ lẫn giáo dân một tay kiến thiết cơ sở, một tay làm việc trong cánh đồng truyền giáo. Các vị này tích cực phổ biến lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa và biệt kính Đức Mẹ Maria. các thánh đường nguy nga đồ sộ theo lối kiến trúc Rôma hoặc Gothic, kể cả ngôi thánh đường kiến trúc theo kiể Á Đông tại Phát Diệm, cũng đßẼc xây cất vào thời này. Trong đó phải nói tới nhà thờ lớn Hà Nội, Phú Nhai, Kẻ Sở, Nam Định , Ninh Bình, Đà Lạt, Sài Gòn, Tân Định, Huyện Sĩ, Qui Nhơn..... Các cơ sở bác ái và giáo dục, các bệnh viện Công Giáo được thiết lập tại nhiều thành phố, như bệnh viện Saint Paul, các chi nhánh trường Dòng Taberd, các trại Dục Anh, Tế Bần, Trại Cùi, Viện Dưỡng Lão... Các cơ sở này được điều khiển bởi các tu sĩ của rất nhiều Dòng đang thi đua du nhập và phát triển tại Việt Nam. Rất đông người theo đạo, có khi cả một làng xin trở lại. Riêng tại giáo phận Bùi Chu trong 12 năm, từ 1885-1897, đã có 83 làng theo đạo Chúa. Một sự kiện khích lệ hơn cả làm cho lửa Tông Đồ bốc cao là việc Đức Thánh Cha Lêô XIII tôn phong Chân Phước cho 64 vị Tử Đạo vào ngày 27-5-1900, Đức Piô X phong 8 vị năm 1906 và 20 vị năm 1909. Năm 1888 có 9 Giáo Phận với số giáo dân nửa triệu người đến măm 1933 đã tăng lên 14 giáo Phận và số giáo dân hơn 1.300.000. Số Giám Mục là 15 vị và Linh Mục là 1.429 vị. Trước sự phát triển vượt mức như trên, Đức Giáo Hoàng đã chỉ định và tấn phong vị Giám Mục tiên khởi tại Rôma năm 1933. 4. Thời Trưởng Thành (1933-1988) Trước khi đưa ra quyết định chọn cha Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng làm Giám Mục. Toà Thánh đã thiết lập toà Khâm Sứ Đông Dương tại Huế ngày 20-5-1925. Hành động này chứng tỏ toà thánh đã coi Việt Nam ngang hàng với các Quốc Gia khác. Qua các bài báo cáo của toà Khâm Sứ, ngày 6-11-1933, Đức Thánh Cha Piô IX đã đích thân tấn phong cha Nguyễn Bá Tòng làm Giám Mục phụ tá giáo phận Phát Diệm với quyền kế vị. Năm sau, ngày 18-11-1934 các Giám Mục Đông Dương cùng với Đức Khâm Sứ Dreyer họp Công Đồng thứ nhất tại Hà Nội. Công Đồng đã phân thành nhiều uỷ ban soạn thảo và đúc kết thành quy chế Công Đồng Đông Dương thứ nhất. Quy chế này nhằm phát triển mọi sinh hoạt của Giáo Hội tại đây, đặc biệt đào tạo hàng Giáo Sĩ Việt Nam theo tiêu chuẩn quốc tế và thiết lập mọi tổ chức theo như Giáo Luật hiện hành. Kể từ đây, các Giám Mục Việt Nam được lần lần tấn phong và thay thế các Giám Mục ngoại quốc, như Đức Cha Hồ Ngọc Cẩn năm 1935 coi Bùi Chu, Đức Cha Ngô Đình Thục năm 1938 coi Vĩnh Long được tách rời khỏi Nam Vang, Đức Cha Phan Đình Phùng năm 1940, Đức Cha Lê Hữu Từ năm 1945. Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chánh Pháp tại Việt Nam. Trước tình thế này vai trò của các vị Thừa Sai ngoại quốc càng trở nên khó khăn và số linh mục Việt Nam đủ điều kiện làm Giám Mục tăng thêm nhiều. Toà thánh quyết định "Việt Nam Hoá" hệ thống lãnh đạo Giáo Hội qua việc trao cho Giám Mục bản quốc: Hà Nội cho Đức Cha Trịnh Như Khuê năm 1950, Bắc Ninh cho Đức Cha Hoàng Văn Đoàn năm 1950, Vinh cho Đức Cha Trần Hữu Đưc năm 1951, Hải phòng cho Đức Cha Trương Cao Đại năm 1953. Năm 1954, hiệp định Genève chia đôi đất nước khiến gần 750.000 giáo dân Công Giáo miền Bắc phải di cư vào miền Nam, sự ra đi này để lại một khoảng trống lớn tại miền Bắc, chỉ khoảng 713.000 giáo dân, 7 Giám Mục cà 374 Linh Mục. Tới năm 1959 vị Thừa Sai cuối cùng trong đó có Đức Khâm Sứ Dooley, bị trục xuất khỏi miền Bắc. Giáo Hội tại đây trở thành Giáo Hội thầm lặng. Trong khi đó, tại miền Nam tự do, với lực lượng từ miền Bắc tăng cường, Giáo Hội phát triển mau lẹ cả bề rộng lẫn bề sâu. Công viêc truyền giáo được chú trọng trước hết là vấn đề dậy tân tòng. Năm 1957 đã có 67.854 người theo học các lớp giáo lý người lớn. Riêng giới trí thức Công Giáo càng hoạt động mạnh mẽ hơn, họ tham dự vào các hoạt động quốc gia, các trường đại học, trung tiểu học công tư. Không một họ Đạo nào được thiết lập mà bên cạnh không có trường học, một vài cơ sở bác ái từ thiện, đón nhận nhiều người không Công Giáo hơn người Công Giáo. Nhiều thánh đường lớn được xây cất. Các đoàn thể Công Giáo Tiến Hành, các Dòng Tu nam nữ phát triển mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu mục vụ. Đặc biệt 3 viện đại học Công Giáo đã gây được nhiều uy tín và ảnh hưởng nhất tại miền Nam. Những bước tiến vững mạnh trên đây đưa tới quyết định của Toà Thánh thành lập phẩm trật Giáo Hội tại Việt Nam qua Tông Hiến Venerabilium Nostrorum do Đức Gioan XXIII ký, ban hành ngày 24-11-1960. Tông Hiến này đặt Giáo Hội Việt Nam dưới quyền điều khiển của hàng Giáo Phẩm Việt Nam. Toàn quốc chia thành ba giáo tỉnh: Hà Nội với các giáo phận miền Bắc dưới quyền điều khiển của Đức Tổng Giám Mục Trịnh Như Khuê, Sài Gòn với quyền điều khiển của Đức Giám Mục Nguyễn Văn Bình và Huế dưới quyền điều khiển của Đức Giám Mục Ngô Đình Thục. Tính tới năm 1988, miền Bắc đã có một vị Hồng Y và 14 Giám Mục, chừng 350 linh mục và hơn 2 triệu giáo dân. Miền Nam có gần 3 triệu giáo dân, tên dưới 2.000 linh mục. Giáo tỉnh Huế có 12 Giám Mục và Giáo tỉnh Sài Gòn có 16 Giám Mục. Hiện nay theo Đức Hồng Y Trịnh Văn Căn số giáo dân Việt Nam gần 6 triệu người với 25 Giáo Phận. Một số Giáo Phận có hai vị giám Mục. TỈNH THỨC TRƯỚC CƠN BÁCH ĐẠO Các Thánh Tử Đạo Việt Nam Là người Công Giáo Việt Nam, chúng ta rất hãnh diện về Cha ông của chúng ta, Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Không chỉ là 117 vị hiển thánh, mà có cả trăm ngàn tín hữu đã anh dũng làm chứng cho Thiên Chúa. Không chỉ có thời các vua Chúa cấm cách, mà ngay cả thời nay, Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận và cuộc sống nhân chứng của Ngài là một tiêu biểu. Vì niềm tin tuyệt đối và trung kiên vào Thiên Chúa, vì tình yêu mãnh liệt đáp lại tình yêu tạo dựng và cứu chuộc, vì bừng bừng ngọn lửa khát khao được sống trọn vẹn và vĩnh cửu trong thế giới mới của Ba ngôi Thiên Chúa, mà Cha ông của chúng ta đã không ngần ngại từ chối sự sống hay hư nát của thân xác phàm trần để tuyên tín cho thiên hạ biết rằng có một đời sau vĩnh cửu, hạnh phúc thiên thu. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã bị cấm cách, bức bách, bắt bớ, tù đày, lăng mạ, lăng nhục và cuối cùng chấp nhận chết cuộc sống mình, chết thân xác mình, bằng trăm ngàn cực hình dã man, đau đớn. Sức mạnh để vượt qua và chiến thắng của họ là nhân đức cơ bản, là nguồn ơn cơ bản Tin Cậy Mến mà Thiên Chúa ban riêng cho mỗi con người và ơn hiệp nhất ban cho cộng đoàn làm chứng tá phục sinh. Tuyệt đối không phải là sức mạnh của tập thể theo nghĩa phong trào, có tính hời hợt, nhất thời đấu tranh cho một quyền lợi thuộc phạm vi trần thế. Họ đã không bắt chước nhau tử đạo vì danh vọng trần thế là để tiếng lại cho đời sau, nhưng là vì họ xác tín một cuộc sống mới được phục hồi sau cái chết quí giá và ý nghĩa ấy: cái chết làm chứng cho Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, cái chết để sống lại với Đức Kitô. Họ đã thực thi lời huấn thị của Tin Mừng: “từ bỏ chính mình”: vì xác tín sự sống mình có được là do Thiên Chúa, và thuộc về Thiên Chúa; “vác thập giá mình”: chấp nhận tất cả những thương khó trong đời theo Chúa Giêsu, để ý định cứu rỗi của Thiên Chúa Cha được thực hiện, cho mình và cho mọi người. Đối với các Thánh Tử Đạo Việt Nam, bước qua thập giá là từ chối ơn cứu chuộc của Đức Kitô, là bội tín với Thiên Chúa. Vì thế, khi cuộc bách đạo càng khốc liệt, càng đẫm máu, thì niềm tin của họ càng được nung nấu, được tôi luyện thành sắt thép vững chắc nhờ đức mến nồng nàn và đức cậy trông mạnh mẽ. Giáo hội Việt Nam thừa hưởng một di sản Đức tin quí báu, vì nhờ máu các Ngài đổ ra, mà cánh đồng truyền giáo trổ sinh muôn hạt vàng tín hữu. Noi gương Các Thánh Tử Đạo Việt Nam Theo gương các Thánh Tử Đạo Việt Nam, các tín hữu Việt Nam đã kiên trung trong đời sống đức tin cá nhân và cộng đoàn thật đáng khâm phục. Qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử đất nước, qua bao nhiêu đổi thay của ý thức hệ… nhưng giáo lý Chúa Kitô và niềm tin vào Thiên Chúa vẫn ngời sáng trên quê hương không chỉ nghèo nàn lạc hậu mà còn chịu bao thảm họa của thiên tai, dịch nạn.. Tuy nhiên, khi mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cũng là lúc mà mỗi chúng ta phải nhìn lại đời sống chứng tá của mình và của cộng đoàn. Ở đấng bậc nào trong giáo hội, trong đời sống hằng ngày, tất cả chúng ta đều phải đối diện, phải đặt mình trước thập giá, không phải để chúng ta bước qua, mà là để ôm lấy, yêu mến, hôn kính và nhất là vác đi trong cuộc đời. Ngày xưa những khổ hình có thể nói là kinh khủng lắm, man rợ lắm dành cho ai không bằng lòng bước qua thập tự giá. Thời nay, cuộc bức bách mới dùng cách làm cho tín hữu không thấy dữ tợn mà hiệu quả không kém kinh khủng hay có thể nói còn kinh khủng hơn: chiêu bài đổi hướng niềm tin và tình yêu. Chúng ta không thấy mình đang bước qua thập giá, khi chúng ta yêu mến của cải tiền bạc, tiện nghi vật chất và những khoái lạc trần gian hơn là yêu mến Chúa. Hơn nữa, chúng ta vẫn thấy mình rất xứng đáng vì những việc đạo đức, những việc tông đồ. Chúng ta không thấy mình bước qua thập giá, khi mình đang làm việc Chúa để tìm chút hư danh cho mình. Hướng đến của Tình yêu chúng ta là Chúa, đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta là Thập giá Chúa Kitô, nhưng tài hoa của ma quỉ đã khéo léo chuyển hướng đến tình yêu của chúng ta là chính chúng ta. Quả thật, chúng ta đang không làm chứng cho một Thiên Chúa, nhưng chúng ta đang làm chứng cho chính mình, khẳng định chính mình, củng cố danh dự chính mình. Chúng ta đang bước qua thập giá mà không hề hay biết. Không tỉnh thức trước những âm mưu của ma quỉ, chúng ta có thể nằm gọn trong đúng mục tiêu, đúng tầm ngắm của cuộc bách đạo mới. Tỉnh thức trước cơn bách đạo thời nay Mục tiêu của cuộc bách đạo thời nay vẫn là cản trở, ngăn cấm con người đến với Thiên Chúa, hoặc bằng mọi giá, cắt đứt tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Một loại gông cùm xiềng xích mới, một loại nhà tù hiện đại đang được sử dụng khắp nơi trên thế giới. Mục tiêu của cuộc bách đạo mới không chỉ đơn thuần là việc bắt bớ, bỏ tù một vài người đấu tranh cho tự do nhân quyền, cho tự do tôn giáo, nhưng là bỏ tù cả ngàn ngàn người trong cái vỏ ốc cầu an, trong cái hố bằng lòng về sự tự do xem như là tạm đủ, trong cái túi chấp nhận một loại tự do ảo tưởng, trá hình mà thực ra đó là thứ tự do làm nô lệ. Cũng vậy, việc đập phá một ngôi thánh đường, chưa bằng đập phá cả triệu cung điện của Thiên Chúa nơi tâm hồn các tín hữu bằng những chủ thuyết vô thần, vô luân, vô vọng tưởng một đời sau… để không còn hòn đá nào trên hòn đá nào, không còn một định luật tôn giáo nào, không còn một nguyên tắc đạo đức nào, không còn niềm tin tôn giáo nào trong chính tâm hồn người công giáo. Nhận lãnh bí tích rửa tội để có một danh xưng, hoặc hợp thức hóa một tình trạng. Và các bí tích Kitô giáo khác được lãnh nhận tiếp theo như một thủ tục-Cung điện của Thiên Chúa là một bức họa không hơn. Việc đóng cửa nhà thờ, không cho các tín hữu hành đạo làm sao nguy hiểm bằng để tự họ cảm thấy đến nhà thờ không còn cần thiết hơn việc xem phim, giải trí và các tiêu khiển khác của một đất nước đang có đủ thứ món ăn chơi. Làm cho cánh cửa tâm hồn các tín hữu tự đóng lại để không đón nhận được Thiên Chúa, và tự mở ra để đón nhận những trào lưu thế tục là mục tiêu cuộc bức bách nguy hiểm vô cùng. Tâm hồn các trẻ thơ vừa có trí khôn, mới mở ra với cuộc đời, đã đón nhận bài học con người bởi khỉ mà ra, để sẽ sống như khỉ và chết như con khỉ - cuộc bức bách về giáo dục không Thiên Chúa. Mới ngày nào đây, lương tâm các đôi vợ chồng, nhất là các tín nữ còn đắn đo, do dự khi phải chọn cho mình một cách tránh thai hợp với luật Thiên Chúa, và cương quyết bảo vệ sự sống đến cùng thì hôm nay, lương tâm ấy đã chai đi và có thể chấp nhận bất kỳ một phương pháp nào để khước từ thiên chức làm Mẹ. Hơn thế nữa, không những khước từ ơn tiếp tục cuộc sáng tạo của Thiên Chúa, mà còn có thể hủy hoại quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa ở bất kỳ tháng tuổi nào. Không cần thiết phải cấm các em học giáo lý, vì biết chắc những trang giáo lý khô khan kia sẽ không hấp dẫn bằng những trò chơi vô bổ hàng giờ trên máy vi tính ở các dịch vụ internet, hoặc những trang web có sức gieo vào đầu các em một kiểu sống vô luân. Vì thế cuộc bách đạo hướng đến việc sản xuất và du nhập hàng loạt phim ảnh như những viên đạn đồng bắn nát đức tin và luân lý của cả một thế hệ. Còn một điểm nhắm quan trọng hơn cả của cuộc bách đạo là làm rạn nứt sự hiệp nhất giáo hội, mà phải là sự rạn nứt bắt đầu từ những thẩm quyền cao nhất, đến các thành phần ưu tú nhất, rồi đến những cộng sự thân cận, xuống đến các tín hữu. Tinh thần thế tục luồn lách vào trong mọi bất đồng gây nên những xáo trộn nội bộ không đáng có, dẫn đến những rẽ chia đáng tiếc. Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam không chỉ là những cuộc rước kiệu linh đình, tôn vinh Cha Ông với niềm tự hào dân tộc, nhưng trước tiên là tạ ơn Chúa đã gieo trồng Hội Thánh Chúa ở Việt Nam bằng những giọt máu, và tôn vinh Cha ông với niềm tự hào về sức mạnh toàn thắng của Thánh Giá Chúa Kitô. Nếu không có niềm tin, cậy, mến vào Thiên Chúa và nhất là vào Thánh giá vô địch của Chúa Kitô, Cha ông chúng ta đã không thể lãnh nhận phúc tử đạo, làm chứng cho Thiên Chúa. Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo còn là cơ hội cho mỗi người chúng ta nhìn lại cách sống chứng nhân của mình và phải luôn cảnh giác trước cuộc bách đạo kiểu mới, nhất là trong toàn cảnh xã hội Việt Nam. Có thể chúng ta đang nằm gọn trong mục tiêu cuộc bách đạo, vì đã bước qua thập giá đức Kitô lúc nào không hề hay biết, mà vẫn chủ quan tự nhận những chứng nhân anh dũng giữa lòng quê hương dân tộc. Có thể chúng ta không những đã bước qua thập giá, không được diễm phúc tử đạo, mà còn tiếp tay cho cuộc bức bách tiến đến mục tiêu tối hậu là tách rời tương quan với Thiên Chúa thật hoặc vẫn còn tương quan với một Thiên Chúa theo mô hình một loại đức tin cập nhật từ chủ thuyết không Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ không hài lòng khi chúng ta từ chối Thập Giá Chúa Kitô và chính Chúa Giêsu nói: “Kẻ nào hổ thẹn chối Ta và các lời Ta, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn chối nó, khi Ngài đến trong vinh quang của Ngài và của Cha cùng các Thiên thần” (Lc 9,26) Chỉ trong vòng một tuần lễ trước Lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam, mà trang tin Vietcatholic đã đưa hai tin quan trọng của giáo phận Phan Thiết: đầu tuần là Tin, Ảnh về nhà thờ Sông Mao hạt Bắc Tuy bị bộ đội đập phá, cuối tuần là Tin, Ảnh Thánh Tâm Chúa Giêsu chảy máu tại Giáo xứ Phước An, Hạt Hàm Tân. Nơi này nơi kia Đức Mẹ khóc. Trái tim Chúa đau buồn đến đổ máu. Chuyện thật hư chưa nhất thiết phải nói đến, nhưng trước khi mừng Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, thiết nghĩ mỗi người đều phải đặt mình trước một sự thật: Thiên Chúa đau lòng vì con người xúc phạm đến Thiên Chúa và vì các tín hữu Chúa chưa can đảm để làm chứng cho Ngài. Và từ đó, mỗi người phải tự cảnh tỉnh trước những biến dạng thiên hình vạn trạng của cơn bách đạo hôm nay, để cương quyết “không bước qua Thập Giá” và càng không tiếp tay nối giáo cho giặc. Lạy Chúa, giáo hội lữ hành, và đặc biệt giáo hội Việt Nam chúng con đang gặp những thách đố lớn lao vì những chủ trương không Thiên Chúa và không đời sau đang lôi kéo các tín hữu buông bỏ tinh thần từ bỏ, tinh thần tử đạo của Chúa Kitô. Xin Chúa ban cho mọi thành phần trong giáo hội ơn kiên trung làm chứng cho Chúa qua việc không hướng theo tinh thần thế tục đang hấp dẫn mọi nơi. Lạy Chúa, trong đời sống gia đình, chúng con làm cha, làm mẹ một thiên chức Chúa ban gắn liền với ơn tử đạo, qua việc hiến dâng cả đời cho con cái với bao hy sinh đầy đắng cay và nước mắt. Xin Chúa ban cho chúng con, nồng nàn yêu mến và tín thác vào Chúa, để mỗi hy sinh của chúng con trong đời, xứng đáng là một giọt máu tử đạo rơi xuống, cho mầm đức tin mọc lên trong mỗi gia đình chúng con. Pm. Cao Huy Hoàng Giáo Hội Công giáo Việt Nam và nỗ lực truyền giáo 50 năm qua MỞ ĐẦU Lịch sử Giáo Hội chính là lịch sử truyền giáo, vì Sứ Mạng Truyền Giáo tạo nên và duy trì sức sống của Giáo Hội. Trong sách Giáo Lý Công giáo của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam in dưới hình thức các câu hỏi - đáp, bài “Lịch sử Hội Thánh Công giáo tại Việt Nam” [NXB Tôn Giáo, Hà Nội 2004, tr. 44, bài 21] nhắc cho người giáo dân rằng: “Sống theo sự thật và trong tình bác ái, chúng ta sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Đức Kitô, vì Người là Đầu. Người làm cho toàn thân lớn lên và được xây dựng trong tình bác ái [Eph 4,15-16]”. Hội Thánh được sinh ra và lớn lên cùng với Đức Kitô trong sức mạnh Chúa Thánh Thần. Bài giáo lý đó cũng đề cập chặng đường 50 năm của Hội Thánh Công giáo tại Việt Nam khi đặt ra các câu hỏi: Hàng Giám Mục Việt Nam được thiết lập năm nào? Hiện nay Hội Thánh Việt Nam có bao nhiêu Giáo phận? Năm 1980 Hội Thánh Việt Nam có sự kiện nào đáng ghi nhớ? Người tín hữu Việt Nam ngày nay sống Đức Tin giữa lòng dân tộc như thế nào? Những câu hỏi này dù đã được trả lời, nhưng ta vẫn có thể khám phá thêm những nhân tố nào đã tác động để công cuộc truyền giáo mãi mãi là vấn đề sống còn của Hội Thánh trên Đất Nước chúng ta. 1. GIỚI HẠN PHẠM VI ĐỀ TÀI Nhóm Nghiên Cứu Loan Báo Tin Mừng của chúng tôi thấy rằng đề tài Giáo Hội Công Giáo Việt Nam Và Nỗ Lực Truyền Giáo 50 Năm Qua bao quát nhiều lãnh vực thuộc các Uỷ Ban Mục Vụ khác. Do vậy, chúng tôi tập trung cái nhìn vào góc độ chỉ đạo của các Giám Mục Việt Nam từ năm 1960 cho đến nay tích tụ trong những văn thư mà các Vị đã ban hành, hoặc gửi cho các tín hữu trong giáo phận hoặc toàn quốc liên quan tới sứ mạng Truyền Giáo. Đó là điểm nhấn của bài viết này. 2. THOÁNG NHÌN TIẾN TRÌNH TRUYỀN GIÁO Trong thời kỳ Bảo Trợ (1533 – 1659), ngươi Đại Việt được tiếp nhận Phúc Âm nhờ bao công lao vất vả của các Vị Thừa Sai ban đầu. Đến thời kỳ Tông Toà (1659 – 1960). nhờ ơn Chúa củng cố nền tảng Đức Tin vững chắc, các tín hữu đã tiếp tục trưởng thành đến độ có thể làm chứng nhân bằng hiến cả mạng sống cho Hội Thánh được lớn mạnh, và “khi thời gian đã mãn” Hội Thánh tại Việt Nam đã hiên ngang bước vào thời kỳ Chính Toà kể từ năm 1960 tới nay, theo Sắc Chỉ Venerabilium Nostrorum ngày 24/11/1960 của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII về việc thiết lập phẩm trật Giáo Hội tại Việt Nam (x. Niêm Giám 1964 – Việt Nam Công giáo, trang 174). Trong thoáng nhìn ấy, người tín hữu Việt Nam vẫn đọng lại trong tâm tư những lời khuyên nhủ, các giáo huấn, hướng dẫn, và những chia sẻ tâm tình của các Vị Chủ Chăn kính mến nơi giáo phận, cũng như trên toàn quốc. Nơi đây, chúng tôi chỉ ghi lại một số lời các chủ chăn tác động hiệu quả tới công cuộc Truyền Giáo mà chúng ta đang bàn. 3. THẬP NIÊN CUỐI THỜI KỲ TÔNG TOÀ Thư Chung 1951: Giữ gìn Đức Tin và bước đi thận trọng Lịch sử có lối đi riêng của nó. Đức Tin của người Công giáo lại bị coi như vật cản của một chính thể mới. Trước những khó khăn cho việc truyền đạo và sống đạo, các Giám Mục tại Đông Dương lúc đó đã họp tại Hà Nội từ 05-10/11/1951 dưới quyền chủ tọa cuả ĐGM John Dooley Khâm Sứ Toà Thánh Tại Đông Dương để soạn thư chung mô tả tình hình Giáo Hội và đưa ra phương thức đối phó, trong đó có đoạn: “Vậy, hỡi các bạn linh mục thân yêu, anh em hãy dạy cho dân chúng biết học thuyết xã hội Công giáo, nhất là phải nhấn mạnh vào hai nhân đức nền tảng: công bình và bác ái. Cả giáo sĩ và giáo dân, hãy sống một đời Công giáo sâu xa đặt nền trên nguyên tắc Phúc Âm. Đức bác ái cuả bổn đạo thời xưa đã chinh phục được thế giới trở lại. Bác ái là nhịn nhục, chịu đựng, tha thứ và thành thực muốn làm sự lành cho người khác. Đức bác ái cuả Chúa Kitô đã toàn thắng tật ghen tương của thế gian thì đức bác ái của anh em cũng sẽ thắng cơn ghen ghét của những địch thù Thiên Chuá”. Trong số 11 Giám Mục ký thư chung này có 5 Giám Mục là người Việt Nam (GM Phêrô Ngô Đình Thục, GM Anselmô Lê Hữu Từ, GM Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi, GM Đôminicô Hoàng Văn Đoàn, GM Giuse Maria Trịnh Như Khuê). Trong thời điểm có vẻ đen tối này, thì một an ủi lớn lao cho Giáo Hội Việt Nam đó là ngày 29/4/1951 Đức Thánh Cha Piô XII suy tôn chân phước 25 vị Tuẫn Đạo Việt Nam. Biến cố này cũng cố đức tin của người Công giáo Việt Nam (x. Ba Mươi Năm CG VN dưới chế độ CS 1975 – 2005, tr. 30) Thư Chung 1952: Sống đạo trong dòng văn hóa dân tộc Các Giám mục tại Việt Nam luôn cố gắng theo sát diễn biến thời cuộc, nên năm 1952 đã gửi một thư chung nữa để nhấn mạnh sứ mạng cứu thế của Chúa Giêsu, mà mọi Kitô hữu phải dự phần theo “nhiệm vụ giáo hóa và hướng dẫn trong phạm vi Đức Tin và Luân lý” của giáo quyền. Thư chung đề cao lòng yêu mến nền văn hóa dân tộc: “Hội Thánh Chúa Kitô không thể nghĩ đến việc chỉ trích hay miệt thị những tính cách riêng biệt mà từng dân tộc với lòng sùng kính ham chuộng và sự hãnh diện sáng suốt bảo tồn và coi như một di sản quí hoá”. Về mặt xã hội, thư chung cảnh cáo: “Tư sản là một thực quyền phát nguyên từ nhân vị, muốn phá tư sản tức là đồng thời muốn huỷ hoại trật tự trong xã hội”. Giáo huấn của thư chung cũng hô hào giáo dân tham gia sinh hoạt các đoàn thể Công giáo tiến hành để được huấn luyện sống đạo vững chắc hơn. Để cụ thể hóa các giáo huấn về truyền giáo, các Giám Mục đã quyết định thành lập một “Trung tâm hoạt động tông đồ giáo dân” và đặt Linh Mục Gérard Gagnon (Cha Nhân), dòng Chúa Cứu Thế điều khiển trung tâm. Sau này Cha Gagnon đã lập “biệt thự Thánh Tâm” tại Đà Lạt giúp tập trung huấn luyện nhiều đoàn viên tông đồ cho các đoàn thể của nhiều giáo phận. Cộng tác với Cha Gagnon có Linh Mục Bart. Nguyễn Trí Mạnh (x. Ba Mươi Năm CG VN dưới chế độ CS 1975 – 2005, tr. 34). Thư Chung 1953: Phân biệt phạm vi Công giáo và phạm vi chính trị Băn khoăn về tình hình phức tạp của thời cuộc và ý thức trách nhiệm của chủ chăn, nên các Giám Mục lãnh đạo Giáo Hội viết thêm một thư chung để chỉ ra những nguyên tắc cụ thể về những hoạt động thuộc phạm vi quốc gia hay thế tục. Trong đó xác định Công giáo là một “đoàn thể hoàn toàn tôn giáo và là thành phần của Hội Thánh chung cho thế giới, và không bao giờ có ý nghĩa Hội Thánh là một đoàn thể chính trị”. Từ nguyên tắc này các Giám Mục xác định quyền “nói nhân danh Hội Thánh Việt Nam” - “Không gia nhập một đảng phái chính trị nào và không phản đối chính thể nào, nếu chính thể đó biết công nhận những quyền lợi bất di dịch của Hội Thánh” - Người Công giáo “được tự do nhập đoàn thể hay đảng phái chính trị họ thấy am hợp, miễn là những đoàn thể đảng phái đó tôn trọng tôn chỉ hay trong chương trình hoạt động không có gì phản trái với một lương tâm Công giáo sáng suốt”. Thư chung cũng nhấn mạnh người Công giáo lúc nào “cũng phải giữ đạo Công giáo một cách khiêm tốn nhưng cương quyết”. Mặt khác, các giám mục cũng tìm cách phổ biến sâu rộng giáo dục Công giáo, nên Đức Khâm sứ Dooley đã mở hội nghị báo chí Công giáo 30/3/1954, có 13 tờ báo tham dự, lập ra uỷ ban liên lạc báo chí Công giáo Việt Nam. Uỷ ban đã không thực hiện đuợc mục tiêu vì xảy ra biến cố di cư 1954 (x. Ba Mươi Năm CG VN dưới chế độ CS 1975 – 2005, tr. 34 và các trích dẫn HGPCGVN từ tr. 109-114) Biến cố lịch sử: cuộc di cư 1954 Hiệp Định Genève 1954 chia đội đất nước Việt Nam: từ vĩ tuyến 17 lên phía Bắc thuộc chế độ cộng sản, phần còn lại là miền Nam tự do. Giáo Hội Việt Nam cũng chịu chung số phận chia cắt này, vì phần bị chia cắt ở miền Bắc lại là phần rất đông giáo dân. Khoảng 650.000 giáo dân đã rời bỏ miền Bắc di cư vào Nam, tìm tự do và được giữ đạo dễ dàng hơn. Cùng cuộc di cư này, còn có mấy trăm ngàn đồng bào khác. Các linh mục, tu sĩ người nước ngoài cũng dần dần phải rời bỏ nhiệm sở miền Bắc. Đức Cha Phêrô Maria Phạm ngọc Chi được Đức Khâm sứ Dooley trao nhiệm vụ coi sóc giáo dân và giáo sĩ di cư. Có hai linh mục phụ tá là Mic. Nguyễn Khắc Ngữ giáo phận Lạng Sơn và Dom. Hoàng Mạnh Hiền, dòng Đa Minh. Trong thời điểm chia cắt phũ phàng này, nhiều vị chủ chăn đã chọn thi hành sứ mạng trong thử thách của chế độ mới, nhiều vị đã vào miền Nam tự do lại trở ra Bắc để ươm trồng và truyền giảng Phúc Âm. Vị Giám mục Hà Nội Giuse Maria Trịnh như Khuê, một người nổi tiếng khôn ngoan, thánh thiện và cương quyết đã xây dựng và khánh thành một nhà thờ mới do một linh mục thừa sai ngoại quốc làm chính xứ chỉ vài tháng trước khi thành lập nhà nước cộng sản miền Bắc vào năm 1954 (Histoire universelle des missions catholiques. Vol III, p. 232-233-photos). Thời gian ngắn sau đó, các thừa sai cũng phải ra đi. Cha Paul Carat MEP viết về Đức Cha Khuê: “Chúng tôi được lãnh đạo bởi một con người thánh thiện, Ngài nêu gương sáng cho mọi người ... Ngài lợi dụng tự do tương đối đi thăm Phủ Doãn Tông Toà của Ngài. Bị chặn chỗ này, Ngài chạy chỗ khác, và nài nỉ tín hữu giữ Đức Tin kiên cường ... Ngài nói: “Nếu sau này các giáo dân của tôi phải chịu khổ thể xác hay tâm hồn, thì chính tôi là người phải trả lẽ trước mặt Chúa” (Lettres du P. Paul Carat, MEP). Sau cuộc di cư, 10 giáo phận miền Bắc chỉ còn lại 7 Giám Mục, 374 Linh Mục và một số ít tu sĩ phục vụ 750.000 tín hữu. Xem ra biến cố 1954 là một thử thách gay go cho sự sống đạo và truyền đạo của Giáo Hội Công giáo cả 2 miền Nam - Bắc tại Việt Nam: Sứ mạng truyền giáo phải thích nghi theo dòng lịch sử. Trong góc độ truyền giáo, ý nghĩa của sứ mạng Phúc Âm lúc này nhấn mạnh vào cầu nguyện, hy sinh, và chia sẻ. Những tín hữu Việt Nam lúc này chính là những hạt giống tuyệt hảo nhất đang được gìn giữ ấp ủ trong kho lẫm của Thiên Chúa, đợi ngày tung gieo trên cánh đồng quê hương. Thời điểm này chưa phải là mùa gặt để có thể nói tới con số các tín hữu gia tăng do những phong trào truyền giáo hằng mong ước chỗ này hoặc chỗ kia. Cũng nên nhắc lại ở đây sau Hiệp Định Genève 1954, vì tình hình chính trị, vị Khâm sứ Toà Thánh đóng ở miền Bắc Việt Nam, không liên lạc được với các lãnh thổ khác thuộc quyền, vì vậy ngày 15/2/1956 Toà Thánh đặt một vị Thanh tra Tông Toà tại Saigon. Sau đó, ngày 13/3/1957 vị Thanh tra Tông Toà được nâng lên thành Đại lý Khâm Sứ (x. Niêm Giám 1964 - VNCG tr. 166). Đến năm 1959 vị Khâm Sứ Toà Thánh rời Hà Nội. Toà Thánh thiết lập Toà Khâm Sứ tại Saigon. Đức Cha Mario Brini được cử làm Khâm Sứ Toà Thánh ở Việt Nam. Ngài có công rất lớn trong việc Toà Thánh thiết lập hàng giáo phẩm tại Việt Nam. Từ những ghi nhận trên đây, ta có thể hướng tới thời kỳ Chính Toà đầy phấn khởi đã gặt hái nhiều kết quả, và làm nảy sinh những viễn tượng lạc quan hơn. 4. BỐI CẢNH NHỮNG NĂM 1960 ĐẾN 1980 Thư Chung Mùa Chay 1960: Phản ứng của các Giám Mục miền Nam Trước tình hình giáo dân miền Bắc di cư, các giáo phận miền Nam đã mở rộng vòng tay đón tiếp, hỗ trợ cuộc sống vật chất, an ủi và chia sẻ cuộc sống tinh thần. Nhiều họ đạo gốc Bắc đã mọc lên ở khắp nơi, từ đồng bằng miền Tây, cao nguyên miền Đông cho tới duyên hải miền Trung, lên đến tận Tây Nguyên miền núi. Công cuộc truyền giáo vẫn nương theo đà di dân mà mở rộng. Các Giám Mục miền Nam nhìn nhận tình hình biến động xã hội - chính trị của đất nước ở cả hai miền, đã bày tỏ một thái độ cảnh giác cao trong thư chung Mùa Chay ngày 2/3/1960. Trong đó phê phán gắt gao cộng sản vô thần. Đó là một chủ trương hoàn toàn đối nghịch với “tất cả những gì là tinh thần, siêu nhiên, tín ngưỡng, hoặc đạo lý ; nói cách khác, nó hoàn toàn đối nghịch với chân lý nói chung, và học thuyết Công giáo nói riêng”. Quan điểm này dựa trên bối cảnh lúc đó thế giới đang có cuộc chiến tranh lạnh giữa khối tự do và cộng sản. Bên cạnh Việt Nam là một Giáo Hội Công giáo Trung Quốc đã bị ngăn cách trong vòng kiểm soát và cai trị của cộng sản, và thực tế tại Việt Nam làn sóng cộng sản đang lan dần từ phương Bắc xuống phương Nam, gây nên những mối lo âu trong dân chúng. Những lời lẽ kết án mạnh mẽ đối với cộng sản trong thư chung này là điều dễ hiểu, hợp logic, có tính đề phòng đối phó, và tự vệ (x. Ba Mươi Năm CG VN dưới chế độ CS 1975 – 2005, tr. 38 - 41 và các trích dẫn Hàng Giáo Phẩm Công Giáo Việt Nam [HGPCGVN], tr. 126 – 144.) Ý nghĩa của Sứ mạng Tin Mừng trong thư chung này là củng cố Đức Tin: người tín hữu phải được nuôi dưỡng và tăng trưởng tối đa bằng những giá trị lành mạnh của luân lý Công giáo, để vươn cao nơi trần gian như lúa tốt phải cao hơn, lớn hơn, mạnh hơn để đè bẹp cỏ lùng đang vươn lên trong đồng ruộng (x. Mt 13, 24-30). “Năm Vàng” của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam: Hội Đồng Giám Mục được khai sinh Trong khi Giáo hội Công giáo Việt Nam trải qua những biến cố sôi động đó thì Đức Giáo Hoàng PIO XII qua đời, và Đức Giáo Hoàng GIOAN XXIII đắc cử ngày 28 tháng 10 năm 1958. Ngài mở đầu một kỷ nguyên mới cho Giáo Hội Công giáo toàn cầu. Ngày 25/01/1959 Ngài tuyên bố mở Công Đồng Vaticanô II. Một tin chấn động hoàn cầu và thế giới Công giáo. Riêng với Giáo Hội Công giáo Việt Nam, ngày 24/11/1960, Đức Giáo Hoàng GIOAN XXIII ban sắc chỉ VENERABILIUM NOSTRORUM thiết lập Hàng Giáo Phẩm (Hierarchia Episcopalis) tại Việt Nam. Tin vui đó được coi là biến cố rất vĩ đại, đầy ủi an mà Chúa thương đổ xuống trên con cái của hằng trăm ngàn vị tuẫn đạo, và giờ đây còn đang đón nhận biết bao thử thách. Với sắc chỉ này, Giáo Hội Công giáo Việt Nam phấn khởi và đầy Niềm Tin bước vào Kỷ Nguyên Công Đồng Vaticanô II. Giáo Hội Công giáo Việt Nam phải trở thành chứng nhân lớn của Đức Tin trên quê hương và toàn thế giới. Vài nhận định về Sắc Chỉ – Mặc nhiên công nhận công lao vô cùng to lớn của các vị thừa sai ngoại quốc trong sứ mạng Loan Báo Tin Mừng cho dân tộc Việt Nam, đặc biệt trong việc tổ chức, đào tạo Kitô hữu Việt Nam trở thành những thánh tử đạo, những Tông đồ nhiệt thành. – Các tín hữu Việt Nam được an ủi và khích lệ khi đã tỏ ra kiên cường trong đức tin, sống đạo sốt sắng, duy trì hiệp nhất và tuân theo quyền bính của Giáo Hội. – Giáo Hội Việt Nam được tăng thêm 3 giáo phận mới, không lâu sau được thêm một giáo phận nữa, chứng tỏ sức mạnh truyền giáo của Giáo Hội. – Việc phân chia giáo phận mới giúp thúc đẩy hơn việc truyền giáo. Bởi vì đó cũng là phân chia và xác định trách nhiệm của sứ mạng Tông Đồ. – Sắc Chỉ cũng đặc biệt lưu ý việc đào luyện thanh niên có ơn gọi. Do đó càng thúc đẩy mạnh mẽ việc truyền giáo. – Sắc Chỉ vẫn thúc đẩy dân Chúa tại Việt Nam vững bước tiến vào tương lai. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII ca ngợi cộng đồng dân Chúa tại Việt Nam Đức Giáo Hoàng muốn xác định những ưu điểm của giáo dân Việt Nam trong công cuộc sống đạo và truyền giáo, nên Ngài đã gửi thông điệp 14/1/1961 để khích lệ tinh thần cộng đồng dân Chúa Việt Nam: “Còn giáo dân Việt Nam phải nhìn nhận trong cái danh dự cao quý này không những một bằng chứng nâng cao giá trị cho những truyền thống Công giáo cố hữu ở đây, truyền thống đã được đánh dấu bằng máu các thánh tử đạo ... Từ nay hầu hết các địa phận ở Việt Nam sẽ do các Giám Mục bản quốc quản trị. Sự kiện đó minh chứng một cách hùng hồn sự trưởng thành và khả năng của hàng giáo sĩ ... Những huấn dụ, những chỉ thị do các vị Giáo Hoàng ban bố qua các thông điệp truyền giáo đã có hiệu quả dồi dào và đã được khắp nơi tuân theo một cách trung thành” (x. HGPCGVN 1960 - 1995, tr. 145-15). Sự quan tâm của Đức Giáo Hoàng GIOAN XXIII còn thể hiện qua việc nâng đền thờ La Vang (22/8/1961) và nhà thờ chánh toà Saigon (13/11/1962) lên Vương Cung Thánh Đường. Và tới ngày 18/1/1963 lập giáo phận Đà Nẵng tách ra từ giáo phận Quy Nhơn thuộc Giáo Tỉnh Huế (x. Niêm Giám 1964 – Việt Nam Công giáo, trang 178). Nhìn lại bối cảnh sinh hoạt của Giáo Hội tại miền Bắc Khi Toà Thánh thiết lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam, thì cũng lại là lúc Đất Nước bị chia cắt làm hai miền. Cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất kết thúc bằng Hiệp Định Genève 1954, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới chia cách hai miền Nam, Bắc. Trong khoảng thời gian 300 ngày kể từ khi ký kết Hiệp Định, nhân dân hai miền được tự do chọn lựa nơi định cư. Giáo dân, Linh Mục và cả Giám Mục nữa, từ miền Bắc vào miền Nam để khỏi phải sống chung với Cộng Sản vô thần. Giáo dân Hà Nội di cư 95%, Nam Định 90%, nhiều xứ họ giáo dân rời bỏ quê hương hết một nửa. Giáo phận Hà Nội có hơn 160 Linh Mục người Việt Nam, nay chỉ còn lại 60, phần nhiều là tuổi cao. Giáo phận Hải Phòng còn lại 10 Linh Mục già yếu. Giáo phận Lạng Sơn còn lại một Linh Mục và một thầy Kẻ Giảng. Vị Linh Mục duy nhất này, Cha Vincentê Phạm Văn Dụ, trong sắc chỉ của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam, đã được Toà Thánh phong làm Giám Mục chính toà địa phận Lạng Sơn, nhưng phải đợi 19 năm sau, tức năm 1979, nhân khi Trung Quốc đem quân tràn sang biên giới phía Bắc, Ngài di tản về Bắc Ninh và được Đức Giám Mục Bắc Ninh -Phaolô Phạm Đình Tụng- tấn phong trong âm thầm lặng lẽ. Cùng được phong Giám Mục chính toà trong văn kiện trên đây của Toà Thánh, còn có Cha Đa Minh Đinh Đức Trụ, Giám Mục Thái Bình, người sẽ phải cải trang làm anh đạp xích lô đến Hà Nội để được Đức Cha Giuse Maria Trịnh Như Khuê tấn phong trong đêm. Đức Tân Giám Mục Thái Bình đã “hò hẹn” với Cha Giuse Phạm Năng Tĩnh trên một con thuyền lênh đênh giữa sông để tấn phong Cha làm Giám Mục chính toà giáo phận Bùi Chu. Gian nan là thế, nhưng rất may mắn là “Đức Cha Khuê có một bộ tham mưu trẻ, có năng lực ở bên cạnh. Công việc hàng đầu: lúc nào cũng là củng cố đức tin trước thời đại đầy thử thách … Nhà in Têrêxa do Cha Trần Văn Mai làm giám đốc, còn bao nhiêu giấy tốt, đều cho in Sách Kinh Bổn. Toà Giám Mục Hà Nội dự định làm sao cho mỗi gia đình trong địa phận cũng như ở các nơi đều ít ra có một bộ sách Kinh Bổn. Nhà in còn trù liệu in tất cả các sách đạo bằng tiếng Việt, nhất là các sách tháng Đức Bà, tháng Trái Tim, tháng các Linh Hồn, để mọi người có sẵn trong tầm tay ít là thức ăn cần thiết cho đức tin. Sách tóm Bốn Phúc Âm cũng là sách đứng ưu tiên hàng đầu. Sở dĩ lúc đó không đặt ưu tiên vào bộ Thánh Kinh, một là vì không đủ kinh phí, hai là lúc này chưa có bộ Thánh Kinh hoặc Tân Ước được phổ biến rộng rãi, giáo dân còn ít đọc Sách Thánh”. “Lịch Công giáo năm 1956 được in bằng thứ giấy đẹp nhất, tốt nhất. Làm thế vì nghĩ rằng, sau này không biết có in được lịch nữa không, hoặc có giấy mà in không. Nên lần này có thể là in lịch cuối cùng, phải in rất kỹ rất bền để dùng cho các năm sau” Đức Cha Khuê còn soạn một bộ giáo lý dưới hình thức câu hỏi – thưa. Ngài chỉ thị các nhà thờ, vào ngày Chúa Nhật, phải đọc một đoạn trước khi giảng. (Đức Cha Phaolô Lê Đắc Trọng: những câu chuyện về một thời, tập II, Hà Nội 2007, trang 72-73). Trong lúc hàng giáo sĩ chuẩn bị những “thức ăn cần thiết nhất cho đức tin”, thì giáo dân vẫn sống đạo theo cung cách xa xưa của cha ông, kinh vãn chuỗi hạt là những “món ăn” hàng đầu trong các buổi cầu nguyện mà vắng bóng Linh Mục. Thường khi là cả năm mới được dự một thánh lễ, nhưng nhà thờ họ vẫn leo lét ngọn đèn chầu. Ấy là công lao vất vả của ông trùm, hàng tuần đạp xe cả mấy chục cây số, cung nghinh Thánh Thể cho giáo đoàn chịu lễ mỗi sáng Chúa Nhật và duy trì ngọn đèn chầu cho các buổi kinh hạt sáng chiều … có những họ đạo hàng mấy chục năm chưa nhìn thấy Giám Mục của mình, Đức Cha (Giuse Nguyễn Quang Tuyến, Giám Mục Bắc Ninh), trong chuyến thăm viếng mục vụ tháng 2/1999, đã ban phép Thêm Sức cho những cộng đoàn mà giáo dân tuổi từ 8 đến 80, đã “gỡ rối” cho hàng trăm đôi vợ chồng chưa hề lãnh nhận bí tích Hôn Phối mà nay đã con đàn cháu đống. Bà con bảo nhau, gọi nhau, từ vùng sâu vùng xa, cơm nắm muối vừng về gặp Giám Mục (Vũ Sinh Hiên: Quê Hương và Hội Thánh – Từ những chuyến đi, Saigon, 1999). Người ta vẫn nhắc lại đó đây hình ảnh những chứng nhân đức tin đã dấn thân chịu đựng những thử thách gay gắt, căng thẳng nhất để như hạt giống thối đi cho hôm nay Hội Thánh tại miền Bắc được sinh hoa kết quả. Đó là những câu truyện về một số Đức Cha mà một thời người ta đã gọi là Giám Mục “chui” vì được thụ phong âm thầm lặng lẽ, hoặc trong cảnh trốn tránh vì gặp nhiều khó khăn từ phía nhà cầm quyền, như Đức Cha Khuất Văn Tạo (Bắc Ninh), Đức Cha Đa Minh Đinh Đức Trụ (Thái Bình), Đức Cha Giuse Phạm Năng Tĩnh (Bùi Chu), Đức Cha Bùi Chu Tạo (Phát Diệm), Đức Cha Phêrô Phạm Tần (Vinh),Đức Cha Vinh Sơn Phạm Văn Dụ (Lạng Sơn), Đức Cha Gioan Baotixita Trần Hữu Đức (Vinh) ….. (x. Công giáo Trên Quê Hương Việt Nam, Chương 28 & 29, Tập II của Lm. JMT Nguyễn Thế Thoại, xuất bản 2001). Nhiều vị trên đây đã không thể rời Toà Giám Mục để đến với đoàn chiên mà chỉ cư trú trong Toà Giám Mục hằng 10, 20, 30 năm. Ngoài ra còn phải kể đến rất nhiều Linh Mục, thầy Giảng hoặc nam nữ tu sĩ và giáo dân đã đồng lao cộng khổ với các Giám Mục của mình trong nhiệm vụ tông đồ như đã mô tả trên. Đó là những chứng nhân đức tin, những hạt giống nẩy mầm của Giáo Hội miền Bắc. Còn đối với đoàn chiên đã ra đi thì các Giám Mục miền Bắc đã tìm ra hướng sinh hoạt tương đối ổn định cho họ. Mỗi giáo phận đều có một trụ sở mà vị đại diện của giáo phận ấy coi sóc, mỗi giáo phận cũng tổ chức một ủy ban quản trị tài sản của giáo phận mình gồm 4 thành viên. Thêm vào đó, các Dòng tu hoặc chủng viện của các giáo phận cũng sinh hoạt và có tuyển sinh hằng năm. Riêng các chủng viện từ niên khóa 1960-1961 ngưng tuyển sinh để dần dần sát nhập vào chủng viện của giáo phận địa phương miền Nam. Ngoài ra, các sở và các nhà thờ giáo xứ di cư được phân phối trên toàn miền Nam. Các nhà thờ mọc lên “như nấm” làm cho các giáo phận miền Nam như vui hơn. Dù ngay cả khi Đất Nước đã được thống nhất liền một dải vào năm 1975, thì vẫn còn đó cảnh tù tội mà không có bản án, cảnh quản chế của nhiều Linh Mục, của các cụ trùm, ông quản giáo, anh ca trưởng v..v… Đến thời kỳ đổi mới (1986), sau Đại Hội VI của Đảng Cộng Sản cầm quyền, sinh hoạt của Giáo Hội hai miền Nam – Bắc tạm thời được dễ chịu dần dần, tuy mức độ xử lý sinh hoạt tôn giáo nặng nhẹ mỗi nơi mỗi khác, tuỳ theo trình độ và tâm tính của cán bộ địa phương. Gặp lại nhau, Giáo Hội miền Nam xin chân thành ngả nón trước ý chí kiên cường, lòng trung thành của Giáo Hội miền Bắc đối với Thiên Chúa, đối với Hội Thánh. Lại càng thán phục hơn nữa khi chỉ 30 năm, Giáo Hội miền Bắc đã mau lẹ tiếp thu những phát triển của Hội Thánh toàn cầu, khiến hôm nay “mặt bằng” đức tin và hiểu biết của hai miền, giáo sĩ cũng như giáo dân, đã có chung một tiếng nói, một đồng cảm dành cho Nhà Chúa. Bối cảnh sinh hoạt của Giáo Hội tại miền Nam Tại miền Nam tính từ dưới vĩ tuyến 17, năm 1954, Giáo Hội đã tiếp nhận khoảng hơn 800.000 tín hữu gồm đủ mọi thành phần từ Giám Mục, Linh Mục đến các tu sĩ và giáo dân (x. Công giáo Trên Quê Hương Việt Nam, Chương 29, Tập II của Lm. JMT Nguyễn Thế Thoại, xuất bản 2001). Công việc trước mắt là ổn định nơi ăn chốn ở cho con số giáo dân khổng lồ này, công việc không chỉ riêng là của nhà cầm quyền mà là của cả giới lãnh đạo Giáo Hội nữa. Hàng loạt các giáo xứ được thiết lập từ miền Trung tới đồng bằng sông Cửu Long. Con nhà có đạo di cư bỏ nhà cửa ruộng nương lại sau lưng, nhưng vẫn muốn giữ “căn cước” của mình. Giáo dân Tam Toà lại lập giáo xứ Tam Toà, giáo dân Phát Diệm lại lập giáo xứ Phát Diệm, thành ra hôm nay, khi Đất Nước đã liền một dải mà có hai giáo xứ cùng tên ở hai miền Nam – Bắc. Bỗng chốc, Giáo Hội miền Nam chẳng cần phải loan báo Tin Mừng mà có hàng ngàn giáo xứ, hàng trăm ngàn tín hữu. Giáo dân miền Nam vốn chân chất, giữ đạo theo phong cách Nam Bộ, uyển chuyển nhẹ nhàng, ít câu nệ hình thức, thì nay sống chung với những cộng đoàn Bắc di cư, thích rềnh rang cờ quạt chiêng trống. Rồi đây những miền đất hứa mưa thuận gió hoà, khác hẳn với thời tiết khắc nghiệt ở phương Bắc, sẽ đưa bà con đến những cánh đồng bội thu, rồi cần cù làm lụng, chắt chiu tiền bạc, họ lại xây cất những thánh đường nguy nga, mua sắm những giàn trống kèn làm ngỡ ngàng dân Nam Bộ. Có những họ đạo Nam Kỳ rặt, nay đón nhận một số giáo dân Bắc Kỳ di cư, rồi chỉ vài năm sau, những người mới nhập cư này vốn năng động, khéo ăn khéo nói, họ cũng nhận làm ông câu ông biện như ai. Nói chung, việc đạo đã không gặp khó khăn nào trong việc hội nhập và tái cấu trúc Giáo Hội ở bên dưới vĩ tuyến 17. Chỉ hai năm sau Hiệp Định Genève và bốn năm trước ngày thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam, Toà Thánh đã phê chuẩn và cho thi hành Hiến Chương Công giáo Tiến Hành Việt Nam vào năm 1956. Hiến Chương này đã mở rộng cánh cửa cho công việc Loan Báo Tin Mừng qua các đoàn thể Công giáo tiến hành. Giáo dân thoải mái tham gia các hội đoàn tuỳ theo khả năng và hoàn cảnh của mỗi người. Có những đoàn thể chuyên biệt dành cho những người cùng ngành nghề hoặc cùng một hoàn cảnh sinh hoạt: hướng đạo Công giáo, thanh sinh công, thanh lao công, trí thức Công giáo, thanh niên thánh nghiệp …. Có những đoàn thể không chuyên biệt, ai tham gia cũng được như Legio Mariae, các dòng ba Đa Minh – Phanxicô, Cát Minh … Tất cả các hội đoàn này đều nhằm mục đích: thánh hoá bản thân tín hữu, giáo dục các thành viên theo linh đạo Hội Đoàn, và loan báo Tin Mừng cho mọi người xung quanh. Không còn bàn luận gì nữa, việc Loan Báo Tin Mừng không chỉ là ở trong nhà thờ, trên toà giảng, mà là bằng chính cuộc sống yêu thương, bác ái của Kitô hữu. Từ nhiều thế kỷ trước, hiệu quả của công việc Loan Báo Tin Mừng đã từ những thúng thuốc nam của các “Bà Mụ”, các Chị dòng Mến Thánh Giá, len lỏi vào các thôn làng hẻo lánh, cũng như hôm nay từ những lần thăm hỏi ân cần của anh chị em hội viên Legio Mariae (tạm dịch là Tông đồ Mẹ Maria) đến với từng người neo đơn cô quạnh. Thêm vào đó, hiện nay hầu như mỗi giáo phận đều đã thiết lập Trung Tâm Mục Vụ, cơ quan đầu não của giáo phận lo huấn luyện giáo dân và hoạch định chương trình Loan Báo Tin Mừng trong toàn giáo phận. Tại miền Nam, sau năm 1954, dân chúng được hưởng tự do ở bước đầu áp dụng chế độ dân chủ. Ngoài việc các hội đoàn được sinh hoạt thoải mái, có tư cách pháp nhân được chính quyền công nhận và được giao lưu với các đoàn thể quốc tế, các giáo phận, các dòng tu, các hội đoàn còn được tự do sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt là báo chí và truyền thanh. Trong khuôn khổ hạn hẹp, không thể kể hết ra đây những cơ quan báo chí do Giáo Hội chủ trương hoặc có khuynh hướng Kitô giáo do Giáo Hội đề xướng, những chương trình truyền thanh trên các làn sóng do Nhà Nước chủ quản. Tất cả những phương tiện truyền thông đại chúng này đã giúp rất nhiều vào việc thông tin các sinh hoạt của Giáo Hội trong nước và toàn cầu, giáo dục đức tin cho người tín hữu, loan báo Tin Mừng cho đồng bào. Để hiểu được tầm quan trọng này, chúng ta chỉ cần suy diễn từ sự kiện độc đáo là đồng bào thiểu số vùng cao Tây Bắc đã gặp gỡ Đức Kitô và giữ được ngọn lửa Đức Tin, chỉ là nhờ những làn sóng phát thanh từ hải ngoại truyền về mà đồng bào đã lén lút nghe trộm trong đêm khuya. Đức Đương kim Giáo Hoàng, Đức Thánh Cha Bênêđíchtô XVI, khi còn là Hồng Y, đã chẳng tuyên bố rằng có bao nhiêu con người là có bấy nhiêu con đường dẫn đến gặp gỡ Chúa sao! Góp tên trong danh sách báo chí và nhà xuất bản của Giáo Hội tại Việt Nam, ta có thể kể ra những đặc san như: Thông Cảm (giới sinh viên CG) – Thánh Nghiệp (Giới thanh niên) – Đồng Tháp (GP. Mỹ Tho) – Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp (DCCT) – Đức Mẹ La Vang (Huế) – Legio Mariae – Lửa Mến (Gia đình Phạt Tạ) – Tin Vui (Dòng Phanxicô) – Trái Tim Đức Mẹ (Dòng Đồng Công) – Tông Đồ (Truyền bá Phúc Âm) – Những tuần báo như: Sống Đạo – Thẳng Tiến ; những nguyệt san như: Sacerdos – Nhà Chúa ; những nhà xuất bản như: Chân Lý – Thiện Mỹ - Đa Minh – Hiện Tại – Ra Khơi – Thánh Gia – Thánh Tâm – Liên Châu – Phúc Hải – Tân Định – Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp …. (x. Niêm Giám 1964 – Việt Nam Công giáo, trang 508 - 512). Rất nhiều sáng kiến truyền giáo được thể hiện đa dạng trong nội dung những văn phẩm nói trên. Do vậy, có thể nói công tác truyền giáo đã được phát khởi xuất sắc ngay từ những ngày đầu Hàng Giáo Phẩm Việt Nam được thiết lập. Sau khi cuộc sống của dân di cư Công giáo từ miền Bắc đã ổn dịnh, các giáo phận miền Nam bỗng nhận thấy mình quá tải. Đã đến lúc phải thành lập các giáo phận mới để sinh hoạt trong Giáo Hội được thuận tiện và hiệu quả hơn. Giáo phận Long Xuyên (1960) tách ra từ giáo phận Vĩnh Long ; giáo phận Đà Nẵng (1963) được tách ra từ giáo phận Qui Nhơn ; giáo phận Ban Mê Thuột (1967) được thành lập từ giáo phận Kontum. Từ giáo phận thủ đô Saigon, hàng loạt các giáo phận được hình thành để chia bớt gánh nặng với … “Tây Đàng Trong”: Đà Lạt (1960) ; Mỹ Tho (1960) ; Xuân Lộc (1966) ; Phú Cường (1966) và Phan Thiết (1975). Sau năm 1975, sang thiên niên kỷ III, giáo phận Bà Rịa Vũng Tàu (2005) tách ra từ giáo phận Xuân Lộc, nâng tổng số giáo phận của Việt Nam Công giáo lên con số 26. Giáo Hội tại miền Nam với công cuộc Loan Báo Tin Mừng sôi nổi, với những thành quả nhãn tiền cứ tưởng như là lên núi Tabor đến nơi rồi, nào ngờ, con đường Thiên Chúa dẫn dắt Giáo Hội là xuống dốc lên đèo đến thế! Ngày 30/4/1975, toàn bộ miền Nam rơi vào tay chính quyền Cộng Sản miền Bắc. Một bộ phận nhỏ giáo dân bỏ nước ra đi, nhưng tuyệt đại đa số giáo dân ở lại với Quê Hương, không một vị nào trong Hàng Giáo Phẩm ra đi như năm 1954. Một số Văn thư của các Giám Mục Việt Nam Trước hết khi đề cập đến Hội Đồng Giám Mục trong thời khoảng 1960-1975, ta nên hiểu đó là các Giám Mục miền Nam, vì sự gián đoạn mối liên lạc Bắc - Nam không thể có gặp gỡ các Giám Mục của 2 miền. Từ khi có Hội Đồng Giám Mục, các Giám Mục Việt Nam có nhiều dịp gửi huấn dụ chung đến mọi thành phần dân Chúa trên quê hương như: Ngày 8/11/1963: Các Giám Mục dự họp Công Đồng Vaticanô II viết thư gửi các linh mục vừa thuật truyện Công Đồng, vừa kêu gọi các linh mục hãy nghiên cứu giáo lý và mục vụ truyền giáo sâu xa hơn để đáp ứng đòi hỏi của Công Đồng. Trong thư cũng đề cập một thái độ văn hoá là cần dịch Kinh Thánh ra tiếng Việt, cố gắng làm cho Chúa Kitô có bộ măt Việt Nam Ngày 22/1/1964: Các Đức Giám Mục ra thông cáo về việc kiện toàn tổ chức Hội Đồng Giám Mục- Canh tân Phụng Vụ - Tìm giải quyết vấn đề quân dịch cho các chủng sinh - Duy trì và phát triển Đại Học Đà Lạt - Khuyến khích các cơ quan ngôn luận Công giáo phục vụ giáo lý và sống đạo - Xác định thái độ Giáo Hội đứng bên ngoài các tranh giành chính trị. Thông cáo này rút ra từ nội dung thư luân lưu viết cùng ngày. Ngoài 9 Giám mục Việt Nam ký tên còn có các Đức Cha Marcel Piquet Nha Trang, Đức Cha Paul Seitz Kontum, và Đức Cha André Jacq hiệu Toà Cesara. Năm 1966, các Giám Mục Việt Nam có gửi thư lên Đức Giáo Hoàng nói về sinh hoạt của Giáo Hội tại Việt Nam như việc huấn luyện tai Học Viện Giáo Hoàng Đà Lạt, tổ chức Caritas, và các sáng kiến tông đồ khác, nên Đức Giáo Hoàng gửi thư phúc đáp và an ủi. Nhân đó khi họp thường niên tại Saigon, các Giám Mục đã theo tinh thần của Đức Thánh Cha phổ biến thông cáo ngày 7/10/1966 kêu gọi giáo dân sống tinh thần hy sinh không câu nệ hình thức - Dấn thân vào đời góp sức xây dựng xã hội thịnh vượng công bằng và nhân ái - Khuyến khích các cuộc hội thảo để trao đổi ý kiến, mở rộng tầm hiểu biết về chính trị - Cổ võ thanh niên về một nếp sống lý tưởng theo Chúa Giêsu. Ngày 5/1/1968 các Đức Giám Mục hoạ theo Đức Thánh Cha, ra một thông cáo kêu gọi cầu nguyện cho hoà bình. Những đề tài “Người là sự bình an của chúng ta” (Ep.2-14) -“Phúc Âm hoà bình” (Ep.6-15) - “làm cho người hoà thuận” (Mat. 5-9).Nhắc lại lời Đức Thánh Cha ngày 2/5/1967: “Phải chấm dứt các cuộc oanh tạc trên Bắc Việt và đồng thời cũng phải chấm dứt những cuộc xâm nhập vũ khí và vật liệu chiến tranh vào miền Nam”. Phiên họp Hội Đồng Giám Mục 3/5/1968 tại Saigon có Đức Khâm sứ tham dự. Trong phiên họp có thông báo về cải tổ cơ cấu Toà Thánh. Mỗi Bộ đều có đại diện các nước. Đức Cha Giuse Trần văn Thiện (Mỹ Tho) được đề cử làm uỷ viên Thánh Bộ Truyền Giáo. Phiên họp cũng đề cập đến việc lập Đại Chủng Viện Nha Trang-Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới - Đẩy mạnh hợp tác cuả các Dòng Tu vào các hoạt động truyền giáo của Giáo phận - Các dòng tu canh tân theo tinh thần Vatican II - Việc cải tổ Phụng Vụ và dịch kinh sách phục vụ lợi ích giáo dân - Tổ chức Caritas-Huấn luyện Công giáo tiến hành - Toà Thánh phê chuẩn nội quy mới của Hội Đồng Giám Mục. Để đẩy mạnh xây dựng hoà bình, HĐGM đã gửi thư luân lưu 5/1/1969. Nội dung kêu gọi mọi người tôn trọng phẩm vị con người và hòa hơp quốc gia, tức là: Tôn trọng lương tâm - Tôn trọng gia đình - Tôn trọng lao công - Tôn trong giáo dục - Tôn trọng luật pháp - Tôn trọng sinh mạng, tự do và tài sản - Tôn trọng hoà hơp dân tộc. Thư luân lưu nhắc đến tình yêu chia sẻ trong biến cố đau thương Tết Mậu Thân vừa qua - Kêu gọi mọi người hàn gắn vết thương dân tộc. Những nội dung trong văn kiện này được trình bày trong bối cảnh hoà đàm Paris về hoà bình cho Việt Nam đã khởi sự mấy tháng trước đó. Thông cáo ngày 30/7/1971 của các Giám Mục Nam Việt Nam vừa nhìn lại hướng đi 6 tháng qua mà phiên họp đầu năm (kết thúc 10/1/1971) đã quyết định. Trong đó chỗ đứng của tu sĩ và giáo dân được đề cao theo tinh thần Vaticanô II. Về mặt truyền giáo, Uỷ Ban Truyền bá Phúc Âm được thiết lập. Cũng có Ủy ban Truyền thông xã hội, Ủy ban Giáo dục. Mỗi Ủy ban có một số hội đoàn Công giáo tiến hành cộng tác. Cũng trong kỳ họp này, Hội THỪA SAI VIỆT NAM được thành lập, và Đức Cha Philiphê Nguyễn Kim Điền phụ trách. Thông cáo 30/7/1971 cho thấy hành động thực tế của Giáo hội miền Nam: Đối với người nghèo, các giáo phận nhất là miền Cửu Long sẵn sàng và thúc đẩy chính phủ truất hữu ruộng đất Nhà Chung để cấp cho dân nghèo. Đối giới trẻ, Giáo Hội tổ chức mạng lưới giáo dục giúp hơn nửa triệu học sinh (thống kê 1971 là 529.802 học sinh). Trong số này một nửa không Công giáo. Thống kê của Bộ Văn Hoá Giáo dục 1969 cho biết trong số 292 trường Trung học của các tôn giáo, thì có 222 trường Công giáo, tức 76%. Ngoài ra, trường Công giáo còn chiếm 80% tổng số các tiểu học tư thục trong toàn quốc. Thông cáo này cũng quan tâm nhiều vấn đề mà Công đồng Vaticanô II đưa ra và tham khảo ý kiến quần chúng. Ví dụ sự độc thân của linh mục - công bình trên thế giới - vấn đề bầu cử ... Ý nghĩa Tin Mừng Chúa Kitô đòi hỏi công bình và bác ái trong thông cáo này thật rõ ràng khi các vị Giám Mục mạnh dạn tuyên cáo: “Cả Bắc lẫn Nam, nhận xét đầu tiên của chúng tôi là Việt Nam đang bị giằng co giữa hai thế lực tranh giành ảnh hưởng ... xã hội Việt Nam là phản ảnh của tình trạng quốc tế: một thiểu số giàu cứ giàu thêm mãi và một số nghèo cứ nghèo thêm mãi. Người ta đưa ra nhiều nguyên nhân ... Chúng tôi nghĩ nguyên nhân sâu xa nhất là họ thiếu một đức bác ái chân thành, họ không nhìn nơi đồng bào họ một người anh em ruột thịt ... Họ có bao giờ nghĩ rằng đại đa số nghèo biết đâu sẽ có ngày tức nước vỡ bờ, sẽ gây nên những cuộc cách mạng mà trong đó cả giàu lẫn nghèo không ai được lợi cả.” Hoà Bình Ơi: Thư mục vụ 3/2/1973 Trước những biến cố chính trị dồn dập xảy ra ảnh hưởng tới quê hương và Giáo Hội, trước Hiệp Định hoà bình Paris vừa ký kết 27/1/1973, Hội Đồng Giám Mục không thể không góp tiếng nói Ngôn Sứ của mình. Vì thế thư mục vụ 3/2/1973 được phổ biến đến mọi thành phần dân tộc kêu gọi các bên ký kết Hiệp Định hãy nỗ lực thực thi nghiêm túc hoà bình, hoà giải dân tộc theo đường lối dân chủ và tự do: “Chúng tôi đã tích cực vận động cho hoà bình. Nhưng ... hoà bình này chỉ thực sự được hình thành, khi ... nó được xây dụng trên nền tảng vững chắc, nghĩa là khi nó được chân lý làm nền tảng, công bình làm qui tắc, tình yêu làm động lực, tự do làm bầu khí”. Ý nghĩa Rao Giảng Tin Mừng trong thư mục vụ này nổi lên ở lời kêu gọi nhìn nhận Thiên Chúa là Cha để mọi người đều có thể gọi nhau là anh em. Nhưng tiếng Ngôn Sứ của Hội Đồng Giám Mục có lẽ đã vang trong sa mạc. Cuộc chiến sắp kết thúc, quân ngoại quốc ở Nam VN rút về nước vào tháng 3/1975. Còn lại là những người chung màu da, tiếng nói đang đánh nhau. Ngày 10/1/1974 Hội Đồng Giám Mục cất tiếng van nài: “... Một lần nữa chúng tôi tha thiết yêu cầu chính phủ hai miền Nam Bắc cùng một lượt và song phương, trong tình thương dân tộc, ngưng hẳn mọi hoạt động chiến tranh, chấm dứt ngay việc tuyên truyền thù nghịch ... chung sống hoà bình như hai nước anh em đợi ngày thống nhất bằng một cuộc tổng tuyển cử thật tự do và dân chu ... Chúng tôi yêu cầu hai miền Nam Bắc trao trả hết tù binh quân sự và dân sự ... Cho phép các gia đình ly tán ... từ bên này sang bên kia đoàn tu ... Chúng tôi cũng xin Chính phủ miền Bắc cứu xét và thả những người bị giam cầm vì hành động chính trị hay tôn giáo. Riêng cho Giáo Hội Công giáo tại Bắc Việt ... Chúng tôi xin cho các đấng Giám Mục, anh em đáng kính của chúng tôi, được năng gặp gỡ nhau bàn về giáo sự, được liên lạc với chúng tôi và nhất là được liên lạc với Toà Thánh Rôma”. Bên cạnh mối âu lo về tình hình đất nước, các Đức Giám Mục quan tâm tổ chức Năm Thánh CANH TÂN VÀ HÒA GIẢI mà Đức Giáo Hoàng PHAOLÔ VI đã khai mạc ngày 10/6/1973. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam ấn định Năm Thánh bắt đầu từ Chủ Nhật I Mùa Vọng 1973 đến hết ngày 24/12/1974. Đề tài Năm Thánh ngẫu nhiên đáp ứng rất thích hợp cho tình hình Giáo Hội và quê hương Việt Nam lúc này. Hai bức tâm thư: tìm ra giá trị của Tin Mừng Đức Kitô trong các biến cố Dù những hỗn loạn diễn ra trong xã hội vào thời kỳ cuối cuộc chiến khiến mọi người hoang mang, các Vị chủ chăn luôn dùng Lời Chúa để hướng dẫn đoàn chiên biết phải chọn lựa một thái độ sống thế nào cho hợp ý Cha trên trời. Đó cũng là một cách rao giảng Tin Mừng mà Thánh Phaolô đã xác định với Timôthê (2 Tim 4, 1-3). Quân cộng sản tiến vào Thành phố Huế ngày 26/3/1975, thì ngày 1/4/1975 Đức Tổng Giám Mục Huế Phil. Nguyễn Kim Điền gửi tâm thư cho toàn thể giáo phận: “Chiến tranh đã chấm dứt trên giáo phận Huế...Thời gian sống trong hãi hùng, lo âu qua rồi. Thời gian đồng bào chúng ta nghi kỵ, chia rẽ, thù hận nhau, có khi đến chém giết nhau đã qua rồi. Chúng ta hãy cùng nhau cảm tạ Chúa vì hồng ân quí giá này”. Ngài không quên “ghi ơn tất cả những ai đã hy sinh để có được ngày an bình hiện nay”. Bức tâm thư tiếp: “... chúng ta hoan hỉ sẵn sàng và hăng say cộng tác với mọi người thiện chí, dưới sự chỉ đạo của Chánh phủ Cách mạng để xây dựng lại quê hương sau bao đổ vỡ tang tóc, hầu đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho đồng bào ruột thịt”. Bức tâm thư cũng nhắc lại luật Bác ái của Đức Kitô... Sau đó một tuần, ngày 09/4-1975 trong buổi lễ ra mắt Uỷ ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thành phố Huế, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền phát biểu về sự tin tưởng ở lời bảo đảm long trọng của Mặt Trận là sẽ tôn trọng tự do, trong đó có tự do tín ngưỡng. Đồng bào Công giáo nguyện tích cực góp phần xây dựng quê hương trong tình tương thân tương ái, một xã hội dân chủ, tự do, hoà bình, trong đó họ được chu toàn bổn phận đối với Tổ quốc và với Thiên Chúa. Ngày 30/4/1975, quân cộng sản vào Saigon...Ngày 5/5/1975, Đức Tổng Giám mục Saigon Phaolô Nguyễn văn Bình trong tinh thần nhũn nhặn và cởi mở đã gửi tâm thư đến toàn thể tín hữu trong giáo phận. Ngài chân thành kêu gọi: – Cảm tạ hồng ân Thiên Chúa đã ban cho đất nước được hòa bình, độc lập. – Không hoảng hốt, khép kín, hãy sáng suốt và tích cực trước mọi hoàn cảnh. – “Nỗ lực tối đa góp phần vào công cuộc hoà giải và hoà hợp dân tộc”. – Tích cực thi hành mọi nghĩa vụ công dân do Chính phủ Cách mạng chỉ đạo. – Hướng về tương lai xây dựng một nước Việt Nam thịnh vượng, một xã hội mới tiến bộ, công bình, giàu tình thương. – Riêng vói tín hữu, hãy tin vào Chúa Kitô Phục Sinh và Thánh Linh. Thư luân lưu của Đức Tổng Giám Mục Saigon: toàn thể giáo dân sống Phúc Âm Ngày 12/6/1975, Đức Tổng Giám Mục gửi thư luân lưu mang nội dung: – Kêu gọi phục tùng chính quyền (trưng dẫn Gaudium et Spes, n. 74) – Đối với các giáo hội từng địa phương: hãy đồng tâm nhất trí, đào sâu Đức Tin để sáng suốt thi hành nhiệm vụ công dân. – Đối với Giáo Hội toàn cầu, Giáo Hội tại Việt Nam luôn hiệp mhất và phục quyền Đức Giáo Hoàng. Với hai tâm thư và thư luân lưu nói trên của hai vị Tổng Giám Mục Huế và Saigon, người tín hữu có thể dễ dàng nhận ra một đường hướng truyền giáo tập thể mang tâm niệm của Kinh Hoà Bình “Đem yêu thương vào nơi oán thù... chiếu trông cậy vào nơi thất vọng ... Đem niềm vui đến chốn u sầu”. Đó là nội dung cơ bản của sứ mạng truyền giáo. Thái độ do hai Đức Tổng Giám Mục xác định có thể coi là định hướng chính cho cách sống đạo và truyền đạo của các tín hữu Công giáo Nam Việt Nam lúc đó. Những ngày sau đó Không thể hết những rối ren, lộn xộn xảy ra đó đây trong Giáo Hội cũng như ngoài xã hội. Sau khi Đức Khâm Sứ Toà Thánh phải rời Việt Nam, thì nửa năm sau một biến cố gây nên nỗi buồn lan rộng trong giáo phận Saigon và toàn thể tín hữu Việt Nam khi Đức Tổng Giám Mục Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận, vị Tổng Giám Mục phó với quyền kế vị TGM Saigon bị Chính quyền Cách mạng đem đi khỏi Saigon (đã đổi tên là Tp. Hồ Chí Minh). Hôm đó là ngày 15/8/1975. Cuộc sống cứ tiếp diễn, nhiều người bỏ đất nước ra đi, nhiều người lên miền kinh tế mới. Nhiều dòng tu, nhiều giáo xứ không còn đất đai, cơ sở vật chất, sự đi lại và cư trú không dễ dàng như xưa, nhiều tu sĩ, chủng sinh hồi tục. Tình hình cần phải cải tiến. Các Giám Mục sẽ thực thi trách nhiệm hướng dẫn dân Chúa trong cuộc hành trình Đức Tin đầy bất trắc trần gian này (x. HGPCGVN 1960 – 1995, tr. 251). Thông cáo chung 20/12/1975 Các Đức Giám Mục trong một đất nước thống nhất giờ đây đã có thể hội ngộ. Cuộc họp đầu tiên tại thành phố Saigon qui tụ 23 Giám Mục trên toàn quốc. Trong cuộc họp này các Giám Mục đã phân nhóm làm việc: – Nghiên cứu các tương quan trong xã hội mới. – Nghiên cứu nội bộ của miền Nam. – Nghiên cứu việc huấn luyện các thành phần dân Chúa. Các nhóm làm việc đều có Giám Mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân tham gia thảo luận. Những chuẩn bị đó sẽ dọn đường cho những kỳ họp tới để có những hướng dẫn cụ thể hơn cho cộng đoàn dân Chúa trên quê hương. Thư chung Hội nghị Giám Mục miền Nam Việt Nam 16/7/1976 Đây là một thư đề ra đường lối mới để người Công giáo sống đạo trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Những điểm chính: – Dấn thân: Cộng đồng Kitô hữu Việt Nam không thể đứng ngoài những thay đổi diễn ra trong lòng dân tộc. Giáo Hội ở đây cũng “phải đồng tiến với xã hội loài người và cùng nhau chia sẻ mọi số phận trần thế với đồng bào ...” (hiến chế Mục Vụ 40). – Phục vụ: Hăng hái chu toàn nghĩa vụ của mình với đất nước và xã hội, phải hoạt động cộng tác với mọi người để tổ chức kinh tế xã hội, cổ võ nâng cao những điều chân thiện mỹ. – Trong cộng đồng dân tộc: Người Công giáo kề vai chung sức với mọi người để xây dựng đất nước, và làm những gì lợi ích chung cho cộng đồng dân tộc mà không nghịch với đức tin và lương tâm Kitô giáo. – Với chủ nghĩa xã hội: Đức tin Kitô giáo và chủ nghĩa Mác Lênin vốn có xung khắc nhưng vẫn có thể đối thoại và cộng tác chân thành giữa những ai phục vụ con người để “trợ lực cho việc xây dựng thế giới này được hợp lý” (hiến chế Mục Vụ 21,6). – Giá trị lao động: Yêu lao động, vì lao động nuôi sống mình và gia đình liên kết với anh em và phục vụ họ để thực thi bác ái và góp công kiện toàn chương trình sáng tạo của Thiên Chúa (hiến chế Mục Vụ 67). Lao động sản xuất còn là chính sách cần thiết xây dựng kinh tế tự túc, để bảo độc lập, tự do của dân tộc. Thư chung cũng nhắn nhủ giáo dân sống thánh thiện giữa đời, nhắc nhở chị em phụ nữ củng cố đời sống đạo đức gia đình, huấn luyện đức tin cho con em để chúng trở nên người Công giáo trung thành. Thư chung nhắc nhở các bạn trẻ cần can đảm bảo vệ và phát huy những giá trị nhân bản và thiêng liêng. Thư chung cũng kêu gọi tu sĩ ý thức ơn gọi và sứ mạng của mình là tận hiến và phục vụ ... trở nên dấu chỉ cho Nước Trời trước mặt dân Thiên Chúa và mọi người. Sau hết, thư chung khuyên các linh mục đem tinh thần hiền hoà khiêm tốn phục vụ dân Chúa và mọi người, chú tâm đặc biệt vào Phụng Vụ ... Thánh Lễ hiệp nhất với Giám Mục ... giúp tín hữu nhận ra ý Chúa quan phòng trong những biến cố của đời sống. Trong phần kết luận, Thư Chung nhắc lại: “Đức tin không phải là bức tường ngăn cách người có tín ngưỡng và không tín ngưỡng, cũng không phải là thuốc mê đưa người Công giáo xa rời thực tại trần gian”. (x. HGPCGVN 1960 – 1995, tr. 255 - 265). Kết luận chung cho đường hướng loan báo Tin Mừng của những năm vừa qua Thập niên 1960: củng cố Đức Tin – Miền Bắc: Sứ mạng truyền giáo tập trung vào việc huấn luyện đạo đức trong gia đình, mục tiêu giữ vững Đức Tin trong mọi hoàn cảnh khó khăn, nhất là khi thiếu vắng mục tử. – Miền Nam: Các giáo phận di cư ổn định cuộc sống, làm việc và học tập trong sự đùm bọc chia sẻ của các giáo phận địa phương. – Hội Đồng Giám Mục (dù chỉ gồm các Giám Mục miền Nam) theo sát tình hình truyền giáo của đất nước, nên đã có những văn bản hướng dẫn mục vụ kịp thời nhất là trong bối cảnh các giáo huấn của Công Đồng Vaticanô II đang cần được phổ biến. – Các dòng tu thực hiện sứ mạng truyền giáo tại miền Nam theo nhiều hướng. – Ơn gọi truyền giáo tăng cao nhất là nơi những giáo phận mới được thiết lập. – Đẩy mạnh giáo dục tri thức cấp đại học, và cổ võ thanh niên dấn thân theo lý tưởng Chúa Giêsu. – Khuyến khích báo chí Công giáo. – Mở mang việc giáo dục cơ sở tại các họ đạo, khuyến khích nâng cao trí thức nơi giới trẻ. Thập niên 1970: truyền giáo thiết thực – Nhiều thư mục vụ của Hội Đồng Giám Mục được phổ biến kịp thời theo từng biến cố của đất nước. Xét từng giáo phận thì có những quan tâm riêng về đời sống linh mục hoặc giáo dân mà ở trên chưa nhắc tới. Ví dụ giáo phận Saigon có “Năng quyền thập niên”, giáo phận Long Xuyên có “Chỉ nam linh mục”, giáo phận Nha Trang có tổ chức Hội Đồng Mục Vụ, Tông Đồ giáo dân theo hướng Công Đồng Vaticanô II. – Các uỷ ban trong Hội Đồng Giám Mục được tổ chức và cải tổ ngay từ thông cáo 10/1/1971 và làm việc rất hiệu quả. – Cuộc tổ chức nghiên cứu đường lối truyền giáo của Công Đồng Vaticanô II tại giáo phận Nha Trang 1974, với chủ đề “Trong Cộng Đồng Dân Chúa” do nhiều chuyên gia thực hiện dưới sự điều khiển của Đức Giám Mục FX. Nguyễn Văn Thuận và Cha Bart. Nguyễn Sơn Lâm, Giám Đốc đại chủng viện Xuân Bích – Huế, đã tạo ảnh hưởng lớn trong phong cách sống đạo thời mới của Giáo Hội miền Nam lúc đó. – Các giáo phận cố gắng thực hiện công tác truyền giáo trong việc thiết lập những giáo điểm, nhưng sứ mạng truyền giáo chỉ mới được trao đổi liên giáo phận trong thời gian vài năm đầu của thập niên 1970. Phong trào “Mỗi gia đình một Tân Ước” được phát động thời điểm này. – Cuộc chiến và tình hình an ninh chính trị của đất nước là một thử thách cho sứ mạng truyền giáo, nhưng kết quả cũng vẫn thêm cho Giáo Hội Việt Nam một giáo phận mới: Giáo Phận Phan Thiết (31/1/1975). Những năm cuối thập niên 1970 là thời điểm thử thách rất gay gắt cho nếp sống đạo. Các Giám Mục đã nỗ lực củng cố Đức Tin và hướng dẫn giáo dân vừa sống đạo vừa xây dựng quê hương. Đó là cơ hội thuận lợi để truyền giáo thiết thực. Những yếu tố trên trở thành đà tiến cho những thập niên kế tiếp. 5. NHỮNG NĂM 1980 – 2000 Thư Chung HĐGMVN: một “hiến chương truyền giáo mới” cho hoàn cảnh quê hương Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đầu tiên họp tại thủ đô Hà Nội. Hội Đồng đã ra thư chung 1/5/1980 khẳng định đường hướng mục vụ: “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào”. Thư mục vụ đề ra hai nhiệm vụ cụ thể: Tích cực góp phần cùng đồng bào cả nước bảo vệ và xây dựng tổ quốc. Thư mục vụ viết: “Lòng yêu nước của chúng ta phải thiết thực, nghĩa là chúng ta phải ý thức những vấn đề hiện tại của quê hương, phải hiểu biết đường lối, chính sách và pháp luật của Nhà Nước, và tích cực cùng đồng bào toàn quốc góp phần bảo vệ xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, tự do và hạnh phúc”. Sở dĩ phải nói về nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng tổ quốc là vì trong thời gian này Chính quyền Cách mạng đặc biệt lo lắng về vấn đề phá rối an ninh trật tự có thể đến từ phía mà họ nghĩ là Mỹ - Ngụy, nhưng nặng nề hơn là từ phía Trung Quốc qua ngả Campuchia. Trong thực tế Việt Nam đã tràn quân sang Campuchia 1978, và Trung Quốc đã tràn qua biên giới phía Bắc Việt Nam đầu năm 1979. Ở miền Nam Việt Nam dù xảy ra những vụ việc như vụ nhà thờ Vinh Sơn (2/1976), vụ tịch thu 5 dòng tu ở Thủ Đức (2/1978) mà dư luận cho rằng đó là những hành động răn đe và đàn áp của Chính quyền, nhưng các Giám Mục vẫn không sờn lòng trong quan điểm “Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc” - “Bảo vệ và xây dựng tổ quốc” (x. Ba Mươi Năm CG VN dưới chế độ CS 1975 – 2005, tr. 104). Xây dựng trong Hội Thánh một nếp sống và một lối diễn tả Đức Tin phù hợp hơn với truyền thống dân tộc. Thư chung viết: “Chúng tôi muốn thực hiện điều Công Đồng Vaticanô II đã tuyên bố: “Những gì tốt đẹp trong tâm hồn và tư tưởng của loài người hoặc trong nghi lễ và văn hoá riêng của các dân tộc, hoạt động của Hội Thánh không nhằm tiêu diệt, nhưng làm cho lành mạnh, nâng cao và kiện toàn, hầu làm vinh danh Thiên Chúa và mưu cầu hạnh phúc cho con người’ (hiến chế Tín Lý 17, 1). Muốn thế, một đàng chúng ta phải đào sâu Thánh Kinh và Thần học để nắm vững những điều cốt yếu của Đức Tin, đàng khác phải đào sâu nếp sống của từng dân tộc trong nước, để khám phá ra những giá trị riêng của mỗi dân tộc. Rồi từ đó, chúng ta tận dụng những cái hay trong một kho tàng văn hoá mà xây dựng một nếp sống và một lối diễn tả Đức Tin phù hợp hơn với truyền thống của mỗi dân tộc đang cùng chung sống trên quê hương và trong cộng đồng Hội Thánh này”. Như vậy có sức mạnh nào cản trở được sức thâm nhập của chủ trương “hoà nhập văn hoá” này, khi mà sự hoà nhập này chỉ nhằm xây dựng chứ không nhằm phá hoại? Ngỏ lời với giáo dân: “Chúng tôi xin dựa vào Công Đồng (Vaticanô II) để nói với anh chị em rằng: Ơn gọi của anh chị em là nên thánh giữa đời bằng cách sống Phúc Âm của Chúa Kitô trong các phận sự trần thế (hiến chế Tín Lý 31 ; Mục Vụ 43). Nhờ anh chị em, Giáo Hội hiện diện ngay trong xã hội và góp phần xây dựng đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc. Nghĩa vụ cao cả của anh chị em là sống làm người tín hữu trung thành của Hội Thánh Chúa Kitô và là người công dân tốt của tổ quốc”. Ngỏ lời với tu sĩ: “Dầu sinh hoạt bên ngoài có thay đổi, sứ mạng đặc biệt của anh chị em vẫn luôn luôn là ‘hiện thân của một Hội Thánh muốn hiến mình cho đường lối triệt để của các Mối Phúc Thật’, và anh chị em ‘dùng chính cuộc sống của mình làm dấu chỉ cho tinh thần sẵn sàng phục vụ Thiên Chúa, Giáo Hội và anh em đồng loại’ (Loan Báo Tin Mừng 60 ; Tín lý 44).Chính anh chị em đã tự thấy được rằng đường hướng mà chúng tôi vạch ra cho cả Hội Thánh ở Việt Nam: sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc với tinh thần sẵn sàng phục vụ, phù hợp cách riêng với ơn gọi của anh chị em ... Chúng tôi đặc biệt kêu mời anh em hãy quan tâm ... làm sao cho dung hoà giữa lao động và cầu nguyện, giữa việc hoà mình vào các sinh hoạt xã hội ... và sự trung thành với đời sống cộng đoàn ...” Ngỏ lời với các linh mục: “ Anh em hãy làm cho Chúa Giêsu Kitô hiện diện thực sự giữa đoàn chiên, khi anh em phục vụ các tín hữu cách tận tâm và khiêm tốn (Sắc lệnh đời sống Linh Mục 15). Nhất là, được nhìn nhận như là người đại diện chính thức của Hội Thánh tại địa phương, anh em hãy trở nên hình ảnh của Chúa Cứu Thế, vị mục tử hiền lành và khiêm nhượng để cống hiến ơn cứu độ cho mọi người. Xin anh em hãy cùng với chúng tôi đưa Hội Thánh ở Việt Nam đi vào con đường đã lựa chọn: là sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào”. Dựa trên văn kiện hướng dẫn này, các thành phần dân Chúa yên tâm sống đạo, không khép kín hoặc tự vệ đối với thực tại xã hội, nhưng sẵn sàng dấn thân phục vụ, đem giá trị của Phúc Âm thấm nhập vào các cơ cấu xã hội mới theo mục tiêu của Đấng Cứu Thế: làm cho “Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến”. Ta có thể nói Thư Chung 1980 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam gởi toàn thể dân Chúa là một bản hiến chương truyền giáo mới trên quê hương trong hoàn cảnh hiện tại: Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc. Các phong trào truyền giáo đều phải quy chiếu Thư Chung này (x. HĐGMVN 1980 – 2000, tr. 355 – 369). Thỉnh nguyện thư 1985 đệ trình Toà Thánh Trong bầu khí truyền giáo và sống đạo của giáo dân đang mỗi ngày thêm sốt sắng, Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Văn Căn – TGM Hà Nội, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã đệ trình thỉnh nguyện thư lên Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, có đoạn: “Năm 1985, kỉ niệm 25 năm thành lập (1960-1985) Hàng Giáo Phẩm và thiết lập giáo phận theo đúng thể thức Giáo Luật, con trân trọng xin Đức Thánh Cha cho mở lại hồ sơ các Chân Phước Tử Đạo Việt Nam và cứu xét việc tôn phong các Ngài lên bậc Hiển Thánh”. Trong văn thư đó, Đức Hồng Y cũng nhắc tới “những hi sinh cao cả của những bậc ‘tổ tiên’ đã sinh chúng con trong Đức Tin mà con số giáo dân Việt Nam gia tăng liên tục. Ngày nay sấp xỉ 6 triệu tín hữu trên tổng số 60 triệu đồng bào. Dù hoàn cảnh khó khăn eo hẹp, dù cho khan hiếm Linh Mục, niềm tin của giáo đoàn vẫn sống động linh hoạt. Lời Chúa còn vang dội trong các xứ đạo, các Linh Mục vẫn tiếp tục hăng say gặt hái trong cánh đồng của Chúa. Các Cộng đoàn Tu sĩ vẫn phát triển về phẩm cũng như về lượng. Sau hết, giáo dân ý thức nhiều hơn về nghĩa vụ của mình, họ nhìn thẳng vào những khó khăn để can đảm nhận lấy trách nhiệm đối phó” (x. HGPVN 1980 – 2000, tr. 372). Cuộc tuyên Thánh cho 117 vị Chân Phúc Tử Đạo Việt Nam 1988 và vấn đề đối thoại Với sự cầu nguyện, hi sinh và sự sự vận động từ nhiều phía qua nhiều thời gian, cuối cùng biến cố tuyên Thánh cho 117 vị Chân Phúc Tử Đạo Việt Nam đã được Toà Thánh long trọng tổ chức tại Rôma ngày 19/6/1988. Đó là niềm vui vĩ đại của Giáo Hội Công giáo Việt Nam. Tuy nhiên từ biến cố đáng ghi nhớ đó, ta có thể tự đặt ra một số vấn nạn: – Hàng ngũ các vị tử đạo có nhiều quốc tịch khác nhau, vậy chúng ta có quan tâm đủ các người dân tộc khác với ta trên đất nước này chưa, ví dụ người Khmer, Trung Hoa, Chà, các dân bản địa miền rừng núi cao nguyên v.v. – Câu chuyện Hội nhập văn hoá đã được vận dụng thế nào trong truyền giáo? Những cuộc hội thảo, giao lưu văn hoá nên được tổ chức thường xuyên hơn. Việc Thờ Kính Tổ Tiên gây tranh cãi trong một thời gian lâu dài, nay có nhiều cơ hội cho các tín hữu tìm hiểu kỹ lưỡng hơn về “chữ Hiếu” trong nền văn hoá dân tộc. – Vấn đề đối thoại tôn giáo cần được mở ra theo những hướng nào? HĐGMVN đã thiết lập “Uỷ Ban Đối Thoại Liên Tôn” nhằm tìm hiểu và đối thoại với những tôn giáo khác như Phật giáo, Tin Lành, Hoà Hảo, Cao Đài, Hồi giáo, đạo Ông Bà. Trong chương trình huấn luyện tại các Chủng viện, Học viện, bộ môn thần học về các tôn giáo đã được quan tâm để nhắm tới mục tiêu này (x. Georg Evers, The Churches in Asia, ISPCK 2005, tr. 361, mục nói về VN). Thực ra tại Việt Nam, Giáo Hội đang chuẩn bị cho đối thoại, và hiện nay chỉ nhắm tới việc sống chung, cộng tác làm việc từ thiện chung với các tôn giáo khác mà thôi. Còn việc đối thoại với Nhà Nước, cần được thực hiện với nhiều khôn ngoan, đạo đức. Tóm lại. đối thoại với nhau luôn luôn là việc cần thiết để tìm ra những hướng giải quyết tốt nhất và thuận lợi nhất cho sứ mạng Loan Báo Tin Mừng của Giáo Hội. Mối tương quan với Nhà Nước Ngoài những văn thư gởi dân Chúa, các Đức Giám Mục trong HĐGMVN cũng có những văn thư kính gởi Lãnh đạo Nhà Nước, để trình bày về những sinh hoạt tôn giáo, những đóng góp của giáo dân trong công tác xây dựng quê hương, đồng thời thường xuyên xác định mục tiêu của Giáo Hội trong việc sống và truyền đạo là luôn thích hợp với lợi ích của toàn dân. Những phát biểu của quý Đức Cha cũng nói lên những khó khăn cần sự quan tâm giải quyết của Nhà Nước mới có thể tháo gỡ được(x. HĐGMVN 1980 – 2000, tr. 423 – 430). Thời điểm này (26/10/1993), Đức Cha Phaolô Maria Nguyễn Minh Nhật, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, đã gởi một bản góp ý của HĐGMVN đến Chính phủ, nội dung gồm những góp ý về việc xây dựng đất nước và những yêu cầu bức thiết của tôn giáo. Một điểm quan trọng có thể được nhắc lại: “Trong các quyền của con người thì quyền tự do tôn giáo là đặc biệt rất quan trọng nên phải được tôn trọng như một quyền lợi chứ không phải như một đặc ân. số II, 3” (x. HĐGMVN 1980 – 2000, tr. 434). Ngoài những góp ý trên đây, còn những kiến nghị khác nêu lên những vấn đề của Giáo Hội mà toàn thể dân Chúa mong được Nhà Nước quan tâm, như về mục vụ – nhân sự – cơ sở – giáo dục – dòng tu – việc xuất bản v..v… (x. HĐGMVN 1980 – 2000, tr. 437 - 447). Dù không phải là rao giảng Lời Chúa, nhưng việc các Đức Giám Mục ngỏ lời trong các văn thư gởi Nhà Nước được coi như một “thái độ ngôn sứ” theo khuôn mẫu Gioan Tẩy Giả đã thực hiện. Thái độ đó khuyến khích giáo dân tin tưởng mạnh mẽ hơn và hiệp thông gắn bó hơn với các vị chủ chăn trong sứ mạng Loan Báo Tin Mừng. Góp ý với Hội Đồng Giám Mục thế giới Hoà nhịp với sứ mạng Loan Báo Tin Mừng trên thế giới, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cũng tích cực tham gia góp tiếng nói với Giáo Hội toàn cầu, như đệ đạt ý kiến về bản văn Lineamenta nhằm đóng góp cho việc soạn thảo Instrumentum laboris (x. HĐGMVN 1980 – 2000, tr. 448 - 464). Những ý kiến này rất có giá trị về mặt thần học. Sau đó (17/3/1995) Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục tại Á Châu từ 19/4 đến 15/5/1998 mà Việt Nam là một trong những thành viên sáng lập từ năm 1970 (x. Georg Evers, The Churches in Asia, ISPCK 2005, tr. 333, mục nói về VN 1954 - 1975). Trong những văn bản được công bố tại Thượng Hội Đồng, các Giám Mục Việt Nam đã nêu những vấn đề về Kitô học, Giáo Hội học, Truyền Giáo học ; những thử thách cũng như những mời gọi của hoàn cảnh đất nước cho việc truyền giáo ; đồng thời nói lên quyết tâm thực hiện sứ mạng để đáp lại những thách đố hiện nay khi bước vào ngàn năm thứ III trong bối cảnh Châu Á(x. HĐGMVN 1980 – 2000, tr. 465 - 500). Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã cử phái đoàn tham dự Đại hội Truyền Giáo “Kể chuyện Chúa Giêsu tại Á Châu” (Telling the story of Jesus in Asia) tại Thái Lan 18 – 22/10/2006, trong đó đoàn Việt Nam đã trình bày một phương thức truyền giáo qua con đường hội nhập văn hoá, trong khi vẫn quan tâm diễn đạt câu chuyện Chúa Giêsu trong lịch sử của Giáo Hội và trong mối tương quan với các tôn giáo khác. Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn cũng đã thay lời Hội Đồng Giám Mục gởi thư chúc mừng, và không quên phó thác đại hội trong tay Mẹ La Vang và các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Sau đó, Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hoà, chủ tịch HĐGMVN, trong hội nghị truyền giáo Fidei Donum (Hồng Ân Đức Tin) tại Rôma từ 08 - 11/5/2007, đã phát biểu ngắn gọn về sự lớn mạnh tại Giáo Hội Việt Nam. “Năm 1960 lúc mà Toà Thánh thiếp lập hàng Giáo Phẩm cho Giáo Hội VN thì gia tài Đức Tin các vị thừa sai để lại là một Giáo Hội có 20 giáo phận với hơn 2 triệu tín hữu. Con số này hiện nay đã tăng lên 26 giáo phận với khoảng hơn 6 triệu giáo dân” (x. hội nghị truyền giáo Fidei Donum (Hồng Ân Đức Tin) tại Rôma từ 08 - 11/5/2007, tr. 4). Đồng thời ngài cũng nói tới công cuộc truyền giáo của người Việt Nam ở nước ngoài: “nhiều Linh Mục dòng, triều và Tu sĩ của các giáo phận và Dòng tu được gửi đi từ Việt Nam đã có mặt và phục vụ tại nhiều nơi trên thế giới như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Uc, Ba Lan, Pháp, Hoa Kỳ, Paraquay, Phi Luật Tân, Tân Tây Lan, Mongolia … hiện nay có hơn 500.000 người công giáo Việt Nam sống ở nước ngoài. Ở đâu họ cũng làm cho các xứ đạo sống động hơn, họ tham gia tích cực vào các sinh hoạt giáo xứ. Gia đình công giáo Việt Nam cung cấp nhiều Linh Mục và Tu sĩ cho các Giáo Hội địa phương. Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, cuộc di cư củ ahọ đã trở thành một cuộc truyền giáo” (x. hội nghị truyền giáo Fidei Donum (Hồng Ân Đức Tin) tại Rôma từ 08 - 11/5/2007, tr. 4 - 5). Trong thời điểm hiện nay, HĐGMVN cũng quan tâm đặc biệt đến việc truyền giáo cho anh chị em sắc tộc trên toàn quốc, và đã cử một phái đoàn tham dự hội nghị chuyên đề về công tác đó, được tổ chức tại Thái Lan ngày 21 – 24/8/2009 “Evangelization among indigenous/tribal communities”. Phái đoàn Việt Nam đã trình bày phương cách truyền giáo cho 24 sắc tộc tại một số giáo phận như Kon Tum – Ban Mê Thuột – Đà Lạt – Phú Cường – Hưng Hoá – Bắc Ninh – Cần Thơ. Bản tham luận của phái đoàn Việt Nam nhấn mạnh tới những điểm hướng dẫn của HĐGM trong những văn thư đã ban hành trước đây, đặc biệt về sự thờ cúng tổ tiên, hội nhập văn hoá, huấn luyện cán bộ truyền giáo, thiết lập những giáo điểm và giải quyết những vấn đề xã hội theo chân lý Phúc Âm. 6. TRUYỀN GIÁO THIÊN NIÊN KỶ THỨ III Đây là một thời kỳ đầy hứa hẹn và nhiều thách thức. Trong vòng 7 năm gần đây (2001 – 2007), số người theo đạo trung bình mỗi năm khoảng 35.000 người. Nếu quan sát các lớp giáo lý tân tòng, ta thấy có tới 80% – 90% người muốn theo đạo là để lập gia đình với người có đạo. Vậy động lực theo đạo thực sự của họ là gì? Họ có thể sống đạo và giữ đạo lâu dài không? Nếu nghĩ rằng truyền giáo chỉ để “rửa tội” để nâng con số người “theo đạo”, thì đây đúng là một khía cạnh đáng quan tâm cho công cuộc Loan Báo Tin Mừng. Chúng ta cũng vẫn duy trì quan điểm trên theo lệnh Chúa truyền: “Hãy đi giảng dạy và rửa tội cho muôn dân” (Mt 28, 18-20). Nhưng nhiệm vụ Rao Giảng Tin Mừng (= giảng dạy) cần phải được nhấn mạnh trong thời điểm hiện tại, còn cái rửa tội sẽ được Chúa ban thưởng sau. Uỷ Ban Loan Báo Tin Mừng có đưa ra một đề án cho công cuộc truyền giáo như sau: Truyền giáo “ad intra” – Đào tạo nhân sự: tổ chức các khoá học và thực hành truyền giáo tại các giáo phận, dòng tu, nhất là tại các trung tâm mục vụ của các giáo phận và giáo xứ. – Đào tạo nội dung truyền giáo cho các giảng viên giáo lý với chương trình dài hạn và ngắn hạn. – Tổ chức các lớp giáo lý tân tòng và hậu hôn nhân với nội dung đầy đủ, nhấn mạnh khía cạnh Loan Báo Tin Mừng. – Truyền giáo qua truyền thông: sách vở, băng dĩa, tờ “Hiệp Thông” và các báo lưu hành nội bộ, các trang mạng và báo điện tử. – Phát triển Uỷ Ban LBTM trực thuộc HĐGM và Ban LBTM các giáo phận, giáo xứ. – Truyền giáo bằng đường lối giáo dục, ít nhất là chương trình khai tâm cho các lớp nhà trẻ. – Thiết lập thêm các giáo điểm truyền giáo tại những khu dân cư mới, hoặc nương theo phong trào di dân trong toàn quốc. – Tiếp cận với các tôn giáo bạn trong tinh thần cộng tác, phục vụ và yêu thương. – Tiếp cận với chính quyền trong sự thật và công lý. Truyền giáo “ad extra” – Huấn luyện ơn gọi thừa sai nơi các dòng tu và các giáo phận. – Hoạt động của các Linh Mục, Tu Sĩ thừa sai VN đang truyền giáo ở nước ngoài cũng cần được chia sẻ để hiệp thông trong sứ mạng Loan Báo Tin Mừng. – Hội Thừa Sai Việt Nam cũng cần được phát triển để chia sẻ sứ mạng truyền giáo với các nước trong khu vực mà Liên hiệp HĐGM Á Châu đã đề ra từ năm 1970. hội Thừa Sai Việt Nam chính là “con đẻ” của HĐGMVN. MỞ RA HƯỚNG MỚI Sứ mạng Loan Báo Tin Mừng không bao giờ có hồi kết, bởi vì chúng ta phải “loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”. Ở đây chúng tôi xin đề xuất hướng tới của nhiệm vụ tối hậu này: – Lưu tâm Campuchia, Lào, những người láng giềng gần nhà mà xa ngõ với Giáo Hội Việt Nam. – Cần đào tạo nâng cao các thừa sai giáo dân “vì bổn phận và trách nhiệm của người giáo dân mà không ai có thể làm thay họ cách đầy đủ” (Apostolicam Actuositatem 13) – Để truyền giáo hữu hiệu, cần nghiên cứu thấu đáo về văn hóa, xã hội của các vùng truyền giáo đặc trưng như vùng Tây Nguyên, vùng Cực Bắc, Đồng Bằng Sông Cửu Long, … – Vận dụng mọi phương pháp để khơi dậy niềm khao khát nơi các thành phần dân Chúa: hội thảo, sách báo, phim ảnh, du khảo, hành hương … – Phối hợp chặt chẽ giữa các Uỷ Ban Giám Mục để hoạt động Loan Báo Tin Mừng – Vận động các cha sở, các vị có trách nhiệm mục vụ, tạo môi trường và hoàn cảnh thuận lợi, đồng thời hướng dẫn giáo dân góp phần vào sứ mạng Loan Báo Tin Mừng theo chỉ dẫn của HĐGM. – Tổ chức phát động đồng bộ giữa các giáo phận và dòng tu về việc thiết lập và phát triển 4 hội Giáo Hoàng Truyền Giáo theo huấn thị Cooperatio missionalis về cộng tác truyền giáo theo chỉ thị của Hội Thánh và HĐGMVN. (Người thừa sai trên cánh đồng sứ vụ, đúc kết, tr. 11). AD VENIAT REGNUM TUUM, DOMINE! _________________________________________________________________________________________ Nguồn:
Comments are closed.
|
CategoriesAll Bai Viet Hay Bidong Cau Nguyen Chua Chua Giesu Chuyen Ke Chuyen La Computer Con Nguoi Danh Ngon Dao Dien Thoai Doi Song Dong Vat Download Youtube Duc Giao Hoang Duc Kito Duc Me Gia Dinh Giai Tri Giang Sinh Giao Duc Hanh Phuc Hoi Dap Hon Nhan Inspiration Internet Ky Nghe Ky Niem Bidong Linh Thieng Loi Chua Meo Vat Nghe Thuat Ngoai Ngu Nhu Lieu On Goi Phuc Sinh Phu Nu Sach Sach Dao Software Suc Khoe Suy Niem Tam Linh Tang Le Thanh Ca Thanh Nhan Thien Chua Thien Chua Thien Nhien Tho Tho Bidong Tho Dao Tho On Goi Tho Ty Nan Tho Ve Me Tho Vui Tin Cong Giao Tinh Ban Tinh Cam Tinh Yeu Tin Tuc Tre Em Ty Nan Vatican Vui Cuoi Vuot Bien Xa Hoi Xuan Yeu Thuong Archives
May 2016
Thư Giãn |