bài viết
Vietnamese ARTICLES
12/22/2012 Suy Niệm về Giáng Sinh 3 Niềm vui trọn vẹn (Lc 2,1-14) An Phong op “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một Tin mừng trọng đại, cũng là Tin mừng cho toàn dân : Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa” (Lc 2,10-11). Niềm vui lễ Giáng sinh được sứ thần loan báo : “Hôm nay”, chính là niềm vui hiện tại, lúc này, tại đây, chẳng phải trong quá khứ, cũng chẳng phải sẽ xảy ra trong tương lai. Niềm vui hôm nay, niềm vui vĩnh cửu, niềm vui ơn cứu độ bao trùm mọi chiều kích không gian và thời gian, vì chính Thiên Chúa là Đấng “hôm qua, hôm nay và mãi mãi”. Người chính là vĩnh cửu hóa thân vào thời gian, vô biên trở nên hạn hữu. Thời gian có ý nghĩa trọn vẹn khi Thiên Chúa - Đấng Vĩnh Cửu ở cùng chúng ta. Vốn bị chi phối bởi thời gian và không gian, con người trở nên “chật hẹp”, “oi bức”. Nhưng hôm nay, thân phận hữu hạn được nâng lên trong vĩnh cửu. Lòng người cảm thấy như được mở ra, tâm hồn hân hoan vui sướng. Thiên Chúa đã không chỉ sinh ra một lần duy nhất tại Belem cách đây 2000 năm. Nhưng là Đấng vĩnh cửu hóa nên hạn hữu, Thiên Chúa vẫn đang sinh ra, đang lớn lên và đang sống tại đây, lúc này. Mừng lễ Noel chính là mừng niềm vui ơn cứu độ trọn vẹn và hiện tại cho mọi người thành tâm thiện ý. Bêlem chẳng còn phải là một địa danh xa xôi, quá vãng, nhưng Bêlem ở ngay nơi đây, nơi có niềm vui, tình yêu, bình an và hạnh phúc. Lễ hội Giáng sinh vẫn diễn ra mỗi ngày nơi các tâm hồn những ai thành tâm thiện ý. Sứ điệp Giáng sinh, sứ điệp niềm vui vẫn được loan báo đến khắp cùng bờ cõi trái đất: “Đừng sợ, hãy vui mừng lên”.
Để có thể lắng nghe được sứ điệp Giáng sinh này, con người cần thinh lặng, một sự thinh lặng sâu thẳm, chẳng phải là vắng bóng tiếng ồn nhưng chính là sự bình an, thanh tĩnh và trong suốt của tâm hồn. Trong thinh lặng đó, tâm hồn lên tiếng ngợi khen chúc tụng Thiên Chúa như Đức Maria, như Giacaria, như các thần sứ Thiên Chúa: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương”... Người làm cho niềm vui nên trọn vẹn. Đức Giêsu giáng sinh là niềm vui cho mọi người. Sau khi đã đón nhận niềm vui đó, chúng ta hãy đem niềm vui đến với cuộc đời, đem Tin mừng giáng sinh đến với những ai sầu khổ, đem bình an đến những nơi tranh chấp, đem yêu thương để xóa bỏ hận thù. Đức Giêsu giáng sinh làm người để con người được trở nên con cái Thiên Chúa. Nếu Ađam xưa kia đã kiêu ngạo và bất tuân phục Thiên Chúa, thì Đức Giêsu - Ađam hôm nay đổ tràn tình yêu và hồng ân trên nhân loại bằng cuộc giáng sinh của Người, đồng thời trả lại tư cách làm con cái Thiên Chúa cho nhân loại. Đức Giêsu giáng sinh làm người để thánh hóa mọi giá trị nhân bản. Lòng bác ái, đức khiêm tốn, sự can đảm… vốn là những nhân đức, giờ đây trở thành những giá trị thánh thiêng. Đức Giêsu giáng sinh làm người để con người hiểu biết chính mình hơn, đó là con người cao quí, trổi vượt trên mọi tạo vật, hình ảnh Thiên Chúa. Mỗi lần tham dự lễ hội Giáng sinh, chúng ta được mời gọi biến đổi cuộc đời - vốn tăm tối, chật hẹp, thành một lễ hội yêu thương và hiệp nhất. Hơn nữa, cuộc đời con người chúng ta trở nên có ý nghĩa hơn, vui tươi hơn, bình an và hạnh phúc hơn nhờ "Thiên Chúa ở cùng chúng ta". Xin niềm vui trọn vẹn hôm nay làm cho chúng con cất tiếng ngợi khen, tôn thờ và vui mừng mãi mãi. Fr. Jude Siciliano, op Ánh Sáng đã bừng lên trong đêm tối (Lc 2,1-14) Thưa quý vị. Theo lịch thời tiết thì hàng năm, có một đêm dài nhất vào mùa đông và một ngày dài nhất vào mùa hè. Năm nay đêm dài nhất xảy ra tuần vừa qua. Mùa đông trời âm u, chúng ta chẳng có mấy ánh sáng. Có lúc trời tối quá, chẳng xem thấy gì cả, nhưng cũng không cần ai nói cho chúng ta hay. Thời buổi văn minh, chúng ta có thể tự lo liệu ánh sáng cho mình, chẳng cần ngoại lực trợ giúp. Tối đến chúng ta có thể thắp sáng suốt đêm thâu cho nhà cửa, trường học, văn phòng, xí nghiệp, bệnh viện,… khi đèn đường bật sáng, các quán rượu, nhà hàng, bãi đậu xe, sân thể thao,… sáng trưng như ban ngày. Như vậy không phải trời thiếu ánh sáng, làm chúng ta bồn chồn lo âu. Đúng hơn những thứ bóng tối khác làm loài người sợ hãi. Đó là bóng tối tâm linh, lương tâm sa đoạ, mất tính người, chẳng còn cảm thức tội lỗi,… Nhìn quanh mình, trên thế giới ngày nay không thấy mấy tin vui. Bầu trời luân lý, đạo đức xem ra ngày càng suy đồi. Những đám mây khổng lồ vô luân, trác táng, băng hoại, bạo lực vần vũ khắp năm châu, bốn bể. Chẳng nơi đâu còn được chút an lành. Một thành phố nhỏ xíu ở Việt Nam hàng năm đã có hơn hai trăm ngàn thiếu nữ vị thành niên phá thai. Một xóm đạo nổi tiếng lại có tỉ lệ nạo thai cao nhất nước! Các quốc gia Châu Phi đang chìm dần vào lụt hồng thuỷ Aids! Đâu đâu cũng nghe tiếng kêu cứu chết đói, cướp bóc, hối lộ, tham nhũng, nội chiến, áp bức, bóc lột, bệnh tật. Hàng ngày tin từ Apghanistan, Irắc tràn ngập báo chí về số các thương vong, ôm bom tự sát, bắn phá bừa bãi. Hôm qua thôi, một quả bom nổ ở Baghdad giết hại mấy chục trẻ em học sinh vô tội. Trái đất có năm Châu thì Châu nào cũng đầy dẫy hãi hùng. Thí dụ như Châu Mỹ giàu có tài nguyên nhất, vậy mà người ta tính được hàng trăm triệu người nghèo đói, riêng nước Mỹ là ba mươi triệu ! Các Châu lục khác con số còn nhiều hơn. Miếng ăn đã vậy, điều kiện sống lại càng tồi tệ hơn. Môi trường ô nhiễm, thiên nhiên bị tàn phá, hệ sinh thái tốt thu hẹp dần nhường chỗ cho con người khai thác, thú vật hoang dã đang bị diệt chủng. Hàng chục năm nay, ai cũng biết không khí chúng ta hít thở có quá nhiều độc hại, bầu trời nóng dần lên, các khoa học gia nhóm họp ở Kyoto, Nhật Bản, đã đề nghị các biện pháp phòng ngừa. Chính phủ Hoa Kỳ thẳng tay bác bỏ, không chấp nhận phần đóng góp của mình! Dĩ nhiên, các nước thuộc thế giới thứ ba nghèo khó phải gánh chịu nhiều hậu quả nhất của việc gia tăng nhiệt độ hành tinh: Lụt lội, hạn hán, mất mùa, đói kém. Và chẳng có công tắc nhiệm mầu nào để bật sáng tình hình, hoặc các nhà bào chế thuốc sản xuất kịp liều lượng an thần “giấu buồn làm vui” cho thế giới. Tuy nhiên, nếu nhân loại can đảm và lương thiện nhìn lên Thượng Đế, hẳn Ngài vẫn xót thương ban ánh sáng để không phải mò mẫm đi trong bóng tối sự chết. Đêm Giáng Sinh hôm nay, chúng ta thành khẩn cầu xin Thượng Đế làm người, ban cho mỗi linh hồn một ngọn nến thần linh để thắp sáng thế giới. Thực tế, tiên tri Isaia trong bài đọc 1 đã vuốt mặt gượng vui, khi ông được ơn Chúa, loan báo cho dân tộc Israel đang chịu cảnh lưu đày Babylon: “Đoàn dân đang lần bước giữa tối tăm, đã thấy một ánh sáng huy hoàng, đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (1,9). Rồi đưa ra lý do: “Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng”. Ong viết về quá khứ, nhưng cho cả hiện tại chúng ta ngày nay. Thế sự tuy buồn thảm nhưng mọi sự không thể như vậy mãi. Chúng sẽ qua đi mau chóng và chúng ta có lý do để mừng lễ: Thượng Đế đã xuống cư ngụ giữa loài người. Thực ra bài đọc 1 hôm nay là một bài thơ, bài thơ tạ ơn. Mà thơ thì luôn tràn trề hy vọng. Ngôn sứ đưa ra ba lý lẽ để tạ ơn, mỗi lý lẽ đứng sau một chữ “Vì”. Ngôn sứ Isaia viết về lòng thương xót của Thiên Chúa, cứu chữa tuyển dân thoát ách nô lệ Assyria. Cuối cùng tuyển dân được giải phóng khỏi: “Cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy”. Tuyển dân vui mừng vì được Thiên Chúa giơ tay che chở. Vì thế họ dâng lời tán tạ ngợi khen. Chữ “Vì” thứ ba là trung tâm của tư tưởng bài thơ. Đó là về một sự sinh nở. Đứa trẻ có mặt bảo đảm Thiên Chúa ở với dân tộc Do Thái mà Ngài đã tuyển chọn từ muôn quốc gia. Chẳng có chi vui sướng cho bằng. Những hình ảnh cuối cùng: “Cố vấn kỳ diệu, thần linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình” nói lên triều đại vua David, ước vọng to lớn nhất của dân Do Thái, sẽ được thực hiện. Con trẻ mới sinh ra sẽ dõi theo con đường David, làm khí cụ cho Thiên Chúa, vững chắc đem lại công lý, bình an, hạnh phúc cho toàn dân. Những khao khát này đêm nay Chúa Giêsu bé thơ thực hiện cho linh hồn chúng ta. Liệu mỗi người chúng ta có sẵn sàng đón nhận không? Ngôn sứ Isaia khi kể lại việc Chúa giải phóng, ông cũng mong đợi sự đáp trả của tuyển dân, ăn ở đạo đức, ngay chính, để rút ngắn tai hoạ. Ông kêu gọi chúng ta xét lại nếp sống của mình, ngõ hầu tránh được những điều chẳng lành và dâng lời tạ ơn Thiên Chúa, cứu giúp mình qua khỏi những ngõ tối của cuộc sống. Chẳng ai kể xiết những lần mình được cứu thoát, những lần mình đã đi trong đêm tối và đã nhận ra ánh sáng vĩ đại của bàn tay Thiên Chúa! Tiên tri cũng khích lệ chúng ta hy vọng. Những chi Chúa làm trong quá khứ, Ngài vẫn tiếp tục trong hiện tại và tương lai. Ngài vẫn tiếp tục ban ánh sáng “chói lọi” vào hiện tình tối tăm của thế giới, giúp chúng ta thoát khỏi “địa ngục” trần gian. Chúng ta tin rằng nếu đêm nay Ngài ban ánh sáng và sự sống qua con của Ngài, bé thơ Giêsu, thì Ngài cũng ban cho lý do để hoan hỷ mừng lễ. Bởi ánh sáng này sẽ chẳng bao giờ mờ tắt trong trái tim các giáo dân và thế giới, như tiên tri Isaia tuyên bố trong bài đọc thứ nhất. Các tác giả Phúc Âm có lối kể chuyện đặc biệt về Chúa Giêsu. Các tình tiết câu chuyện bộc lộ những đề tài rộng lớn họ muốn nhắm tới. Thánh Luca trong câu chuyện đêm nay không ngoài thông lệ đó. Chuyện của ông nghiêng hẳn về số phận những người nghèo khó. Hai ông bà Giuse, Maria, những mục đồng, bò lừa là chuyện của những kẻ bất hạnh. Các thiên sứ loan báo tin vui cho họ, tức cho các kẻ khốn cùng của thế giới. Vào thời bấy giờ, mục đồng là kẻ nghèo khó nhất trong xóm làng, họ hay ăn cắp vặt, bị khinh bỉ, xua đuổi và sống lang thang ngoài cánh đồng. Nói cách khác, họ bị dân chúng đẩy ra ngoài lề xã hội, như quan niệm ngày nay. Ngoài ra, công việc hàng ngày không cho phép họ tuân theo các quy định của luật pháp tôn giáo, họ là những kẻ vô đạo, không trung thành với lề luật, hạng mạt kiếp, đáng nguyền rủa. Tuy nhiên sự mau mắn đáp lời Thiên Sứ không chứng minh những điều trên. Ngược lại họ là những kẻ đầu tiên được hưởng lời chúc phúc: “Bình an dưới thế cho những kẻ lòng ngay”. Hoá ra thiên hạ thường nhầm cả đám. Liệu ngày nay chúng ta còn đủ lương tâm trong sạch để đáp ứng Lời Chúa? Liệu chúng ta có đủ can đảm để mau lẹ nghe “tin vui” thiên thần báo? Chúng ta thường dựa vào “xác thịt nặng nề” để dễ bề thoái thác, liệt kê thí dụ thì vô số! Những người chăn chiên nhận tin mừng trong đêm tối. Tin mừng đó là vĩ đại đúng như tiên tri Isaia loan báo trước: Đấng Cứu Thế sinh ra cho thế gian. Liệu ngày nay chúng ta còn có thể nghe được tiếng vang vọng của vị ngôn sứ nữa không? Thời gian viên mãn đã khởi sự. Thiên Chúa chẳng hề bỏ quên chúng ta trong tăm tối nhưng đã thắp lên một ngọn lửa vĩ đại để chúng ta nhìn tỏ và cùng nhau tiến về nhà mình. Thánh Luca thuật lại câu chuyện Giáng Sinh rất đơn giản. Nhưng ông đã nhìn thấy sự quan trọng của nó đối với tuyển dân Do Thái, ông dẫn nhiều lời Thánh Kinh Cựu Ước để minh chứng Chúa Giêsu thuộc dòng dõi vua David. Cũng như vua David, Chúa Giêsu sinh ra tại làng Belem nhỏ bé. Tuy nhiên vị trí của Chúa rộng lớn hơn và quan trọng hơn nhiều: Toàn thể thế gian. Thánh nhân kể Cesar Augustus lúc ấy là Hoàng Đế thượng vị Rôma và lời của ông ngự trị khắp đế quốc. Ông truyền rằng mọi thần dân phải về quê hương đăng ký, và mọi người vâng lời. Nhưng một Lời khác cũng sinh ra trong đêm nay, nó mặc thân xác như một em bé vô danh, giữa đám dân bị áp bức. Tuy nhiên Lời của em còn ảnh hưởng lớn hơn và bền vững hơn nhiều. Lời của Tin mừng cho khắp nhân loại, đến muôn thuở, muôn đời. Lời của Cesare chẳng thể sánh kịp! Chuyện Chúa Giêsu giáng trần luôn hấp dẫn và cảm động. Trẻ em yêu thích nghe kể mãi: Máng cỏ, thiên thần, ba vua, các mục đồng, nến sáng, âm nhạc, cây thông xanh tươi, lấp lánh các ngôi sao, quà bánh, thiệp chúc mừng. Ngày hôm sau, mọi thứ dư thừa đều sẽ bị thu dọn và bỏ vào lửa. Người ta nghĩ đến công việc ở sở làm, xí nghiệp, trường học, buôn bán. Đúng ra, Giáng Sinh là lễ hội của người lớn. Những ngày sau lễ mới là môi trường thử nghiệm. Có đúng chúng ta tin vào những điều mình cử hành? Thiên Chúa mặc xác phàm cư ngụ giữa nhân loại? Ngài trở nên một phần của loài người, nối kết với mọi người trong hy vọng, sợ hãi, cố gắng an ở tốt, lành thánh, là bé thơ đúng nghĩa, thanh niên đúng nghĩa, cha mẹ, ông bà, cô chú, chú dì, hàng xóm láng giềng, bạn bè đúng nghĩa. Ngày sau lễ mới là ngày chứng tá của bánh ngọt Giáng Sinh: Khi tiếng hát thiên thần đã lắng, khi các vì sao đã thôi lung linh, khi các mục đồng đã trở về với đoàn vật, thì là lúc công trình giáng thế mới khởi đầu: tìm kiếm linh hồn đã mất, hàn gắn các vết thương, nuôi nấng kẻ đói nghèo, giải phóng tù nhân, xây dựng xã hội, mang hoà bình cho muôn dân, nhạc vui đến hết mọi tâm hồn. Lúc ấy danh Thiên Chúa mới thực sự rạng ngời trên chốn trời cao và an bình mới thực sự ban cho nhân loại lầm than. Amen. Hoa tư tưởng: Hình ảnh đích thực và trung tâm của Thánh Kinh và mùa vọng, là chúng ta đang sống cảnh lưu đày. Nó tỏ lộ rõ nét chúng ta đang sống kiếp phù du, lạc lõng, ước ao về cư ngụ nơi quê nhà, nơi mình đã bị chia lìa. Giống như dân Do Thái cô đơn trong đất lạ, khát khao đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng loài người. Lễ Giáng Sinh là kết thúc của kiếp sống ấy, được trở về tổ ấm, không phải tổ ấm của tuổi thơ – nó trôi qua vĩnh viễn – nhưng trở về với bàn tay ấm áp, đầy yêu thương của Thiên Chúa. Về nhà với Ngài có nghĩa là Emmanuel với thế giới. Cho nên “vui thoả lòng mừng vui khi đến buổi trở lại quê nhà…” đúng hơn là một ý nghĩa vật chất. (Celebration, Oct – Dec 1995 p6). Như Hạ op Bình An (Lc 2,1-14) Niềm vui trào dâng trong những tâm hồn đang mong đợi Chúa. Chúa đã đến để mọi người thấy thế giới vẫn còn chan chứa niềm hi vọng. Tình yêu và hòa bình là những giấc mơ có thể thực hiện được. Con người có thể thắng lướt mọi trở lực, vượt qua mọi nỗi sợ để vươn mình thành con người tự do trong một miền đất chan hòa ánh sáng. CHÚA GIÁNG SINH. Đức Giêsu đã gặp những khó khăn rất lớn lao ngay từ giây phút đầu đời. Quyền lực và tiền bạc đã trở thành sức mạnh khủng khiếp muốn đè bẹp thân phận Người. “Thời ấy, hoàng đế Augustô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ.” (Lc 2:1) Mọi người phải phục lệnh hoàng đế. Bởi vậy, “ông Giuse cũng từ thành Nazareth, miền Galilê, lên thành vua Đavid, gọi là Bêlem, miền Giuđê” để “khai tên cùng với bà Maria là người đã thành hôn với ông, lúc ấy bà đang có thai.” (Lc 2:4,5) Cuộc hành trình dài 70 dặm đó không dễ dàng tí nào đối với “bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa.” (Lc 2:6) Nhưng lệnh hoàng đế ai dám chống cưỡng ?! Quyền lực chính trị chi phối kinh khủng. Nhưng mãnh lực đồng tiền cũng không kém. Tới giai đoạn cuối cùng đầy nguy hiểm nhất cho cả mẹ lẫn con, “hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.” (Lc 2:7) Lúc đó, tâm trạng hai ông bà như thế nào ? Giuse có hối hận vì đã trót nghe lời thiên thần khuyên ông nhận Maria làm vợ không ? Chẳng phải là tác giả bào thai, nhưng lại phải mang hết trách nhiệm ! Nếu không có đức tin, chắc chắn ông Giuse đã thất vọng tràn trề. Nhưng hỏi có ai mạnh tin bằng thánh Giuse ? Giữa cơn gian truân cùng cực đó, ông vẫn bám chặt vào lời Thiên Chúa hứa: “Này ông Giuse, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” (Mt 1:20-21) Lời Chúa đã trở thành sức mạnh cho ông lướt thắng mọi thử thách. Trong lịch sử dân Chúa rất nhiều người công chính đã được Thiên Chúa trấn an. Chẳng hạn, ông Giacaria được sứ thần an ủi : “Này ông Giacaria, đừng sợ.” (Lc 1:13) Chính Đức Maria cũng cảm thấy an tâm khi nghe sứ thần nói : “Thưa bà Maria, xin đừng sợ.” (Lc 1:30) Rõ ràng người công chính luôn tràn ngập bình an trong tâm hồn. Không một thế lực bên ngoài nào có thể đụng tới tâm của họ. Đức Giêsu cũng vượt lên trên nỗi sợ thường tình của con người. Tâm hồn Người tràn ngập bình an ngay cả khi gặp thử thách. Chẳng hạn, trước khi Đức Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai, ông Gioan Tẩy Giả đã minh chứng : “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người.” (Ga 1:32) Chính Thần Khí giúp Người vượt qua thách đố đầu đời. Thực vậy, trước khi bắt đầu cuộc đời công khai, “Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ.” (Mt 4:1) Chính Thần Khí bảo đảm sự bình an trong tâm hồn Đức Giêsu, khiến quỷ dữ không thể lay chuyển được Người. Chính Thánh Linh đã làm cho thánh Giuse và Đức Maria thắng được bạo lực và sức mạnh của đồng tiền. Người dẫn dắt người công chính thoát ngàn nỗi gian truân. Nét công chính cũng tìm thấy nơi các người chăn chiên. Bởi vậy, họ cũng được Chúa mạc khải cho thấy sức mạnh bảo đảm cho con người thoát khỏi mọi hiểm nguy trên đời. Đang chăn chiên ngoài đồng, “bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu tỏa chung quanh, khiến họ sợ hãi kinh hoàng. Nhưng sứ thần bảo họ : ‘Anh em đừng sợ.’” (Lc 2: 10) Họ lấy lại được bình tĩnh rất nhanh vì nguồn bình an đã giáng sinh: “Này tôi loan báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng sẽ là niềm vui cho toàn dân : Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavid, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa.” (Lc 2:10,11) Người đến giải thoát người nghèo khổ khỏi mọi nỗi lo sợ và đạt tới nguồn bình an bất tận. BÌNH AN CHO NGƯỜI CÔNG CHÍNH Nguồn bình an ấy không phải là cái gì xa lạ. Trái lại dấu rất quen thuộc với cảnh đời nghèo hèn. Thật vậy, “cứ dấu này mà nhận ra Người : anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.” (Lc 2:12) Dấu chỉ sao tầm thường quá vậy. Dấu chỉ kiếm đâu chẳng thấy ! Cái tầm thường vẫn giấu ẩn một nét không tầm thường. Chỉ có những ai tràn ngập ánh sáng Thánh Linh mới đọc ra dấu chỉ đó. Lời sứ thần không xa rời thực tế nghèo khổ, không mạc khải một chân lý xa vời. Tin vào lời một sứ thần, các người chăn chiên lần bước đến với Chúa Hài Nhi. “Bỗng có đạo binh thiên quốc đông đảo hợp với sứ thần cất tiếng ca tụng Thiên Chúa rằng :Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.” (Lc 2:13-14) Đấng làm cho Thiên Chúa được vinh danh trước các triều thần Thiên Quốc, nay đã trở thành nguồn bình an cho con người, đối tượng của tình yêu Thiên Chúa. Phải có cả một đạo binh thiên thần mới hát vang cả góc trời sự thật lớn lao đó. Trong khi đó lời trấn an chỉ cần một ngôn sứ nói lên. Những người nghèo như thánh Giuse, Đức Maria và các người chăn chiên đã đi từ tình trạng không còn sợ hãi đến nguồn bình an vô cùng lớn lao, nguồn bình an đem lại sự hòa hợp đất trời và nối kết con người với nhau. Sợ hãi đẩy con người tới chỗ rối loạn, kinh hoàng. Bình an đem lại sức sống mới và trật tự mới. Bình an đó hôm nay vẫn chưa tìm thấy ngay trên miền đất chôn nhau cắt rốn của Chúa. Con người vẫn sống trong hồi hộp, lo âu, kinh hoàng, chỉ vì họ chưa nhận ra nhau là anh em, đã được mời gọi để hưởng nguồn bình an và trở nên con Thiên Chúa ! Họ còn cậy dựa vào tiền bạc, khí giới, quyền lực để giải quyết vấn đề hòa bình. Chỉ người công chính mới tìm được giải pháp cuối cùng cho vấn đề. Dù lâm vào cảnh loạn lạc, chết chóc, họ vẫn luôn nghe tiếng trấn an của thiên sứ : “Đừng sợ !” bởi vì nguồn bình an đã giáng sinh trong lòng họ. Trong cuộc đời thường, chúng ta cũng có những nỗi sợ vu vơ. Sợ mất mặt nếu phải làm hòa với kẻ thù ghét mình. Sợ mất tiền bạc, thời giờ nếu phải hi sinh cho Giáo Hội hay công cuộc truyền giáo. Sợ bị làm phiền nếu phải ra tay giúp đỡ người nghèo khổ, bệnh tật, già nua. Nhưng nếu được “vinh quang của Chúa chiếu tỏa chung quanh” (Lc 2:9) hay tận tâm hồn, chắc chắn chúng ta sẽ thấy được nguồn bình an đang biến đổi mọi sự từ bên trong. Người đến nói với chúng ta “đừng sợ !” và “hãy sống bình an !” Giacôbê Phạm Văn Phượng op Món quà Giáng Sinh (Lc 2,1-14) Suốt từ đầu Mùa Vọng đến nay, Giáo Hội dạy chúng ta sống trong sự trông mong chờ đợi, những tâm tình, những lời nguyện, những nghi thức, đều hướng về sự trông mong chờ đợi ấy. Trông mong chờ đợi cái gì ? Chúng ta trông mong chờ đợi Chúa đến. Cho đến ngày hôm qua, Giáo Hội loan báo không còn nghi ngờ gì nữa : “Hãy vững tâm, mai các ngươi sẽ thấy Thiên Chúa đến, mai các ngươi sẽ nhìn thấy vinh quang Chúa…”. Hôm nay thì lời loan báo khẳng định : “Nội hôm nay các ngươi sẽ biết, Chúa từ trời ngự xuống dương gian”. Cho đến giờ phút này chúng ta long trọng cử hành đại lễ Giáng Sinh. Có một câu chuyện với tựa đề là “Bà lão trước máng cỏ”. Câu chuyện này xảy ra ở Bê-lem cách đây hơn 2000 năm. Vào lúc hừng đông ngày Chúa giáng sinh, có một bà lão bỗng nhiên xuất hiện đứng trước hang đá. Mẹ Ma-ri-a cảm thấy lo sợ, không biết bà cụ là ai, là một mụ phù thủy hay là mẹ mìn chuyên bắt cóc trẻ con chăng ? Bà cụ chậm chậm đi tới máng cỏ, tay đang cầm một vật gì giấu trong áo. Mẹ Ma-ri-a càng thêm lo sợ, không hiểu bà cụ đang giấu vật gì, một con dao hay một cây kim chăng ? Bỗng Hài Nhi Giê-su mở tròn đôi mắt nhìn bà cụ và mở miệng cười. Bà cụ cúi xuống đặt vào bàn tay bé nhỏ của Hài Nhi vật bà giấu trong áo, cúi đầu chào Hài Nhi rồi quay sang cúi đầu chào Mẹ Ma-ri-a và đi ngay ra khỏi hang đá. Mẹ Ma-ri-a nhìn kỹ món quà trên tay Hài Nhi, đó là một quả táo. Câu chuyện trên đây chỉ là một câu chuyện vui, nhưng cũng nói lên cho chúng ta hiểu một ý nghĩa rất sâu sắc. Trái táo đó chính là nguyên nhân, là lý do của việc Chúa Giê-su giáng trần. Đúng thế, đó là trái táo của tội nguyên tổ. Chính vì trái táo này mà con Thiên Chúa đã nhập thể để chuộc tội cho nguyên tổ và toàn thể loài người chúng ta. Khởi đầu cho chương trình cứu chuộc đó là việc Chúa Giê-su giáng sinh tại Bê-lem mà chúng ta long trọng cử hành kỷ niệm hôm nay. Trong dịp đại lễ này, không những người Công giáo vui mừng, mà mọi người cùng vui, cả loài người cùng vui. Quả thực, Noel, Giáng Sinh, Chúa Hài Đồng là nguồn vui cho mọi người. Chúa Giê-su nhập thể, sinh xuống cõi trần là nguồn vui vô tận cho cả loài người. Tại sao vậy ? Bởi vì nhập thể là bằng chứng cụ thể của tình yêu Thiên Chúa đối với con người : “Từ địa vị một Thiên Chúa cao sang, Thiên Chúa đã từ bỏ để mặc lấy thân phận yếu hèn con người”. Thánh Phao-lô đã nói như thế, và thánh Âu-tinh cũng nói : “Ngôi Hai giáng sinh vì lý do nào, nếu không phải để chúng ta thâm hiểu lòng Chúa yêu thương chúng ta”. Vì thế, chúng ta có thể nói : nhập thể là một món quà yêu Thiên Chúa trao ban cho nhân loại. Và như thế Thiên Chúa là kiểu mẫu cho mọi kẻ tặng quà. Mẹ Tê-rê-xa thành Can-cút-ta có lần đã nói : “Khi ta trao tặng một món quà, và nếu nó là một mất mát hy sinh lớn đối với ta, thì món quà đó càng quý giá”. Một người mẹ ban tặng sự sống cho con, đó là món quà lớn nhất, bởi vì đó là kết quả của chín tháng cưu mang với muôn vàn hy sinh gian khổ. Một người cha ban tặng món quà quý giá cho con, khi ông dành cả thời giờ, sức lực để cho con được nên người. Một người tình trao tặng món quà quý nhất cho người yêu, khi họ dám hy sinh tất cả vì người mình yêu. Trong ý nghĩa đó, chúng ta thấy Thiên Chúa là kiểu mẫu cho mọi kẻ tặng quà. Ngài không chỉ ban tặng sự sống cho con người, Ngài không chỉ ban tặng hồng ân cho con người, nhưng còn ban tặng chính mình Ngài, đó là Ngài đã ban tặng cho loài người con một vô cùng yêu mến, và khi ban tặng như thế, Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta tất cả, không còn gì mà Thiên Chúa không ban cho chúng ta nữa. Mừng lễ Giáng Sinh là chúng ta vô cùng tạ ơn Thiên Chúa đã ban “hồng ân tuyệt diệu” cho chúng ta, đó là món quà Ngôi Lời nhập thể, là Đấng Cứu Thế. Vậy mừng lễ Giáng Sinh là chúng ta mừng sinh nhật của Chúa Giê-su, Chúa chúng ta. Loài người chúng ta, mỗi khi mừng ngày sinh nhật của nhau, chúng ta thường tặng quà, và tặng món quà mà chúng ta đoán người ấy ưa thích hoặc mong ước, thì ngày sinh nhật của Chúa, chúng ta lại không tặng quà cho Ngài sao? Ngài không thích bánh kẹo, quần áo, đồ chơi, tiền bạc, Ngài không thèm bất cứ thứ quà vật chất nào mà chỉ thích tấm lòng của chúng ta, đó là chúng ta hãy tặng quà cho nhau. Mỗi khi chúng ta tặng quà cho bất cứ ai là chúng ta trao tặng tấm lòng chúng ta cho Chúa. Chúng ta đã có sẵn quà chưa ? Từ lễ đêm và suốt ngày mai, chúng ta có nhieu dịp để tặng quà cho Chúa, mong mỗi người hãy thực hiện nghiêm túc. Tâm tình trước hết khi mừng lễ Giáng Sinh là chúng ta phải hết lòng cảm tạ Thiên Chúa. Ngài yêu thương chúng ta vô hạn nên đã ban Con Một Ngài để cứu chuộc chúng ta. Tâm tình thứ hai là chúng ta hãy luôn sống xứng đáng với quà tặng vô cùng quý giá mà Chúa đã ban cho chúng ta, và cách sống Thiên Chúa ưa thích nhất, hài lòng nhất là chúng ta hãy yêu thương nhau : mỗi một cử chỉ, lời nói, việc làm thể hiện tình yêu thương là một món quà chúng ta trao tặng nhau. Mừng lễ Giáng Sinh nhắc nhở chúng ta món quà vô giá Thiên Chúa đã tặng ban cho chúng ta, đồng thời cũng nhắc nhở chúng ta tặng quà cho nhau. Không phải chỉ là những món quà vật chất, bất cứ món quà nào cũng được, miễn là món quà đó gói ghém tình yêu thương chân thành của chúng ta. Giacôbê Phạm Văn Phượng op Vinh danh Thiên Chúa (Lc. 2,1-14) “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”. Nhìn vào bất cứ một hang đá nào chúng ta đều thấy hàng chữ trên, đây là sứ điệp của lễ Giáng Sinh Thiên Chúa gửi cho tất cả loài người, sứ điệp đó chính là lời ca hát tung hô của các thiên thần trên hang đá Bê-lem xưa kia. Trước hết, về việc tôn vinh Thiên Chúa, chúng ta thấy các thiên thần, đất đá, cỏ cây, trời đất… còn biết ca tụng vinh quang Thiên Chúa, còn con người chúng ta thì sao ? biết đâu chúng ta sống mà không sống tôn vinh Thiên Chúa, tệ hơn nữa, có thể chúng ta còn ăn cắp vinh danh Chúa hoặc xóa bỏ vinh danh Ngài. Đáng lẽ của Thiên Chúa phải trả cho Ngài, đáng lẽ chúng ta phải làm cho người khác biết mà ca ngợi Cha chúng ta trên trời thì chúng ta đã làm ngược lại chăng ? Vì thế, chúng ta hãy tôn vinh danh Chúa trong cuộc đời chúng ta và bằng chính con người chúng ta, nghĩa là chúng ta hãy thể hiện bằng việc phục vụ mọi người và phục vụ bằng những việc làm tốt. Chúng ta hãy nhớ : bao lâu chúng ta còn sống với người khác và trong xã hội, bấy lâu chúng ta còn có vô số hoàn cảnh làm sáng danh Chúa, bởi vì chúng ta luôn luôn có thể phục vụ, mà phục vụ con người, phục vụ xã hội, bất cứ cách nào, miễn là bằng việc làm tốt thì chính là một cách tôn vinh danh Chúa, là góp phần làm sáng lên trong Giáo hội và xã hội hình ảnh sống động của Thiên Chúa giàu lòng thương xót, là góp phần làm sáng lên tình thương yêu của Chúa trong lịch sử cứu độ. Còn vấn đề “bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” thì sao ? Câu đó bảo cho chúng ta biết : muốn có bình an, muốn được bình an, chúng ta phải có thiện tâm, nghĩa là lời các thiên thần là lời công bố bình an, nhưng lại gồm một điều kiện cần thiết : phải có thiện tâm. Thiện tâm không phải là hoàn hảo, cũng không đòi phải toàn thiện, nhưng là có một tấm lòng ngay thẳng, trong sạch, bởi vì chúng ta chỉ được bình an khi lương tâm trong sạch, như thánh Gio-an Kim Khẩu nói : “Một lương tâm trong sạch là nguồn bình an lớn nhất trong cơn hoạn nạn”. Hơn nữa, một tấm lòng trong sạch là một máng cỏ sẵn sàng để Chúa Hài Đồng đến ngự. Nếu bình an của Chúa là như thế thì chúng ta có được lời chúc phúc của các thiên thần không ? Muốn biết có hay không, chúng ta hãy nhìn vào kết quả của việc làm. Không ai cho cái mình không có, một người không có bình an thật sự của tâm hồn, họ sẽ chạy đi đây đi đó để tìm bình an giả tạo bên ngoài, nơi người khác hay sự vật và hoàn cảnh chung quanh, đó là những nơi thiếu vắng tình yêu của Chúa. Điều này rất dễ kiểm chứng, như sách Đại Học viết : “Một con tim không ngay chính, bất an xáo trộn, thì con người ấy dù có giương mắt ếch ra mà nhìn cũng không thấy, lắng tai nghe cũng không được gì, mà có ăn nhậu gì cũng chẳng biết mùi vị nữa”. Đó, một khi con tim đã bất an, đã xốn xang mà còn ảnh hưởng tới cái nhìn, việc nghe và ăn uống như vậy, thì huống chi là khi tâm hồn chúng ta hiểm độc, gian ác, tham lam còn ảnh hưởng tới gia đình và xã hội biết chừng nào, còn đâu nữa “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Hôm nay ngày Chúa giáng sinh, ngày Chúa ban bình an, Chúa muốn chúng ta kiểm điểm lại từng tâm hồn, từng gia đình, từng cộng đoàn có được thực sự thứ bình an mà Chúa từ trời mang xuống không ? Xin mời mọi người hãy hồi tưởng lại xem cuộc đời mình đã gây bất an, xáo trộn, sóng gió cho những ai và lý do tại sao vậy, và bây giờ mình và người đó có còn bất an với nhau không ? tại sao còn nhìn nhau bằng nửa con mắt, hoặc bất ngờ gặp nhau thì lại tránh né ? Xin hãy nhìn lại gia đình mình : tại sao gia đình lại ngột ngạt, xô xát, chiến tranh lạnh, chia đủ phe cánh, lườm nguýt, hành tỏi, lừa dối nhau, nghi ngờ nhau…có gia đình đang gặp chiến tranh nóng loại bỏ túi là làm hại nhau, chà đạp danh dự của nhau. Người ta bảo “trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết oan”, “Hai con voi đánh nhau, dẫm nát đám cỏ non”, chúng ta là những bậc bề trên, là người lớn, là cha mẹ mà cãi nhau, đánh nhau, thù oán nhau thì ảnh hưởng tai hại không nhỏ cho anh em, hàng xóm, cho chính con cái trong nhà và ngoài xã hội, và hiện giờ gia đình chúng ta đang ở trong tình trạng nào? Xin mọi người hãy suy nghĩ cho kỹ hai chữ “bình an” để sống cho mình và giúp người khác cùng sống bình an. Chúng ta hãy cầu xin Chúa Giê-su Hài Đồng : Lạy Chúa, Chúa đã nói “Phúc cho người xây dựng bình an, vì họ được gọi là con Thiên Chúa”, xin cho chúng con vào số chúc phúc đó. Từ địa vị một Thiên Chúa, Chúa đã hiện diện giữa nhân loại, bằng lòng chấp nhận thân phận đau khổ như mọi người để đem họ về nguồn bình an chân thật, thì xin cho chúng con biết từ bỏ mọi địa vị, khả năng, hoàn cảnh để gieo vãi tin mừng bình an. Chúa đã chết để đem lại bình an thật, thì xin đừng ai sống mà cắt xén hay làm chết đi niềm vui, hy vọng của anh em mình. Xin Chúa đoái thương riêng đến những gia đình đang bất an vì cơm áo, danh dự để họ gặp lại cảnh gia đình đầm ấm yêu thương. Xin cho chúng con luôn được sống trong bình an của Chúa. Phaolô Phạm Chung Kiên op Chúa Giáng Sinh, Niềm Vui Cho Nhân Loại (Lc 2,1-14) Hợp với toàn thể Giáo Hội, hôm nay chúng con hân hoan mừng kỷ niệm ngày Chúa đến với nhân loại. Chúng con cùng nhau chiêm ngắm Chúa trong máng cỏ với những tâm tình của những mục đồng năm xưa. Đây thực sự là một niềm vui lớn đối với mỗi người chúng con, vì từ đây Chúa sẽ ở cùng chúng con để nâng đỡ và ủi an chúng con trên bước đường trần gian. Chúa đến trần gian để giao hoà chúng con với Chúa Cha; Chúa đến để bắc lại nhịp cầu nối kết giữa Thiên Chúa với nhân loại. Những tuần qua, chúng con đã chuẩn bị hang đá và mở rộng tâm hồn để chờ đón Chúa đến. Những sự chuẩn bị này mang hy vọng về sự bình an và niềm vui vì được cứu độ. Tuy nhiên, những hy vọng của chúng con nhiều khi bị những hình thức bề ngoài chi phối. Chúng con chờ đợi, hy vọng về một Hài Nhi Giê-su với sự lộng lẫy, ngự đến trong tiếng hát mừng và trong ánh sáng rực rỡ. Chúng con cũng mong đợi Chúa đến với hy vọng về một điều gì đó kỳ lạ xảy ra, một điều gì đó sẽ mãi mãi thay đổi cuộc sống của chúng con. Nhưng hôm nay, Chúa đến với chúng con một cách âm thầm, lặng lẽ. Chúa chọn sinh ra trong cảnh nghèo hèn, không chút tiện nghi… Chúa chấp nhận sinh ra trong một hang đá dành cho súc vật giữa cánh đồng Bêlem lạnh giá. Vua vũ trụ mà giờ đây lại tự nguyện lấy hang bò lừa làm nhà và máng cỏ hôi tanh làm nôi, chỉ có chiếc khăn mỏng manh làm mền và hơi thở của gia xúc làm lò sưởi cho qua đêm đông giá buốt. “Chúa là Đấng giàu sang mà giờ đây đã trở nên nghèo khó, để chúng con được trở nên giàu có nhờ sự nghèo khó của Chúa” (x. 2 Cr 8,9). Quả là một niềm vui lớn cho chúng con, vì được lãnh nhận hồng ân lớn lao này. Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã chọn “cái nghèo” để chia sẻ kiếp người với chúng con, để dạy chúng con biết được giá trị của cái nghèo ngay khi mới chào đời, để chúng con cũng biết quan tâm, chia sẻ với những người chung quanh. Thế nhưng, nhiều khi chúng con quá hững hờ và vô cảm trước những mảnh đời kém may mắn. Giờ này trong khi chúng con đang mừng đón Hài Nhi Giê-su với nhiều sự chuẩn bị chu đáo: hang đá với ánh đèn lộng lẫy, các buổi thánh ca, diễn nguyện hoành tráng...., thì nhiều nơi trên thế giới vẫn còn biết bao những người không có lấy một chỗ ở để tránh cái lạnh của đêm đông. Chúng con mừng sinh nhật Chúa với những bữa tiệc linh đình và ê hề, trong khi đó nhiều nơi vẫn còn có những người phải đi lượm từng miếng thức ăn người khác bỏ đi để ăn cho ấm lòng. Chúng con mừng sinh nhật Chúa với những món quà thật đắt tiền, trong khi đó có rất nhiều những cụ già, những em bé cần một cái áo cũ lằn lặn để mặc cho ấm. Chúa là tình yêu, Người đến đem niềm vui và hy vọng cho những người nghèo khó. Chúa đến để cùng chia sẻ với họ trong sự nghèo khổ. Xin Chúa cho chúng con luôn biết bắt chước Chúa, luôn biết chia sẻ và đồng cảm với những số phận không được may mắn trong cuộc sống. Nếu mỗi người chúng con biết sống tiết kiệm, chừng mực không phung phí thì chắc hẳn rằng chúng con sẽ đem niềm vui đến cho rất nhiều người. Một chút hy sinh nào đó cho tha nhân, một món quà nhỏ nào đó sẽ là những món quà quý giá tiến dâng lên Hài Nhi Giê-su. Lạy Chúa Giêsu, Chúa đến để mang bình an và hòa bình cho nhân loại. Thế nhưng nhiều nơi trên thế giới vẫn đang xảy ra những cuộc chiến, khủng bố và bất công. Chúa đến để mang bình an, vậy mà trong cuộc sống chúng con vẫn còn nhiều tranh chấp về địa vị, danh vọng, tiền của, công việc .... Lạy Chúa xin cho mỗi người chúng con luôn biết thể hiện một tâm hồn thật sự nghèo khó và khiêm tốn để chúng con dễ dàng đón nhận bình an của Chúa, để từ đó chúng con mang sự bình an của Chúa đến với những người sống xung quanh chúng con. Hơn 2000 năm đã qua, sứ điệp của “Vua Hòa Bình” đã được các mục đồng khởi xướng vẫn được loan truyền. Nhưng liệu sứ điệp ấy còn có thể được lắng nghe, được hiểu và được sống khi chúng con chỉ biết sống niềm vui Giáng sinh cho riêng mình ? Ngày lễ Giáng sinh đến rồi qua đi, nhưng niềm vui giáng sinh sẽ kéo dài mãi trong cuộc sống của chúng con. Đến với Chúa Hài Đồng nơi máng cỏ, xin cho chúng con cũng biết đến với những người nghèo khổ, những người đói rách, những người đau bệnh… để chia sẻ với họ. Xin Chúa ban cho chúng con luôn biết bắt chước Chúa trong yêu thương, để chúng con luôn biết nhìn đến những Bêlem khác như những gia đình côi cút, những nhà dưỡng lão, những nhà thương, những người nghèo, để chia sẻ với họ. Để cho những hang đá mà chúng con làm thật sự có ý nghĩa, xin Chúa cho chúng con biết biến những hang đá ấy thành hang đá ấm cúng nơi tâm hồn. Ước gì cung lòng của mỗi người chúng con trở thành một hang đá Bêlem nho nhỏ, chật hẹp nhưng lung linh ơn thánh, đầy ánh sáng đức tin và lòng bác ái. Ước gì niềm vui của Thiên Chúa là Đấng tình yêu, nghèo khó và bình an luôn hiện diện trong tâm hồn của chúng con, để chúng con có thể trở thành niềm vui cho nhau và có thể trở thành những món quà tuyệt vời để trao tặng cho nhau trong mùa Hồng Phúc này. Amen. Như Hạ op Ngôi Lời Làm Người Ga 1:1-18 Hòa bình vẫn chưa đến. Tự do còn xa tầm tay. Thiên Chúa làm người đã chia sẻ tất cả khổ đau đó của nhân loại. Nhưng qua đó, Người cũng muốn mạc khải một con đường ngắn nhất đi đến hòa bình và tự do : làm Con Thiên Chúa. MẠC KHẢI VĨ ĐẠI Tin Mừng Gioan đã làm một cuộc cách mạng vĩ đại khi lật ngược tất cả cái nhìn Cựu Ước. Trong khi Sáng Thế Ký quả quyết Thiên Chúa tạo dựng vạn vật từ hư vô và con người từ bụi đất (St 1-2), Tin Mừng Gioan mạc khải : “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành” (Ga 1:3). Nghĩa là, con người và vạn vật được tạo dựng từ tình yêu Thiên Chúa. Cái nhìn Gioan thật sâu sắc. Sáng Thế Ký chỉ nhìn hời hợt bên ngoài, chứ không đi sâu vào tận nền tảng cấu tạo nên vạn vật. Tột đỉnh và nền tảng cuộc tạo thành chính là Ngôi Lời. Thật vậy, “không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1:3). Người chiếm một địa vị then chốt, không thể thay thế nổi vì “điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại” (Ga 1: 4). Tất cả đều lệ thuộc vào Người. Người xuống trần thế như đi vào nhà mình. Nhưng thật là bi đát : “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1:11). Chính cái bi đát này đã gây nên bi kịch cho đời Người. “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người” (Ga 1:10). Càng không nhận biết Người, thế gian càng rơi vào tăm tối, vì “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1:9). Không ai có thể than trách vì ánh sáng Người đã không chiếu tới. Chỉ vì không đón nhận ánh sáng, nên thảm kịch mới xảy ra khắp nơi. Trái lại, “những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1:12). Họ được cứu khỏi tăm tối và đưa vào miền ánh sáng nhờ “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14). Người đã dùng tất cả “vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người” (Ga 1:14), để biến con người thành con Thiên Chúa. Nhờ đó, “tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1:16). Ơn trước tiên là chúng ta được đón nhận vào gia đình Thiên Chúa. Nơi đây, chúng ta được hạnh phúc tôn nhận Thiên Chúa là Cha. Khi được gia nhập gia đình Thiên Chúa, chúng ta được hoàn toàn giải thoát khỏi bến mê tăm tối và xích xiềng nô lệ, vì tất cả sức mạnh chúng ta là “Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1:14). TỰ DO LÀM CON CHÚA Làm con Thiên Chúa, chúng ta sẽ hoàn toàn tự do. Chúng ta sẽ tìm lại được bản chất con người đích thực. Tất cả chúng ta đều là anh em, vì cùng thuộc về gia đình Thiên Chúa. Trong nhà Chúa, chúng ta sẽ thừa hưởng tất cả hồng ân Thiên Chúa đã hứa và thực hiện nơi công cuộc cứu độ của Đức Giêsu Kitô. Bình an sẽ tràn ngập cõi lòng và cuộc đời chúng ta vì “trước mặt muôn dân, Đức Chúa đã vung cánh tay thần thánh của Người : ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta” (Is 52:10) . Không một sức mạnh nào đè bẹp nổi, vì ngay giữa những gian truân cùng cực, chúng ta luôn có “Đức Chúa an ủi dân Người” (Is 52:9). Từ nhà Chúa, muôn sứ giả Tin Mừng ra đi loan báo ơn cứu độ cho muôn dân. Họ là những người tình nguyện đáp lại tiếng mời gọi của Thiên Chúa. Họ có thể là những người đang hi sinh trong những công tác Hội đồng Mục vụ, Tài chánh, đoàn thể, ca đoàn v.v. Họ là những tu sĩ đang cúi xuống xoa dịu vết thương đau của những người nghèo khổ tật nguyền. Họ là các vị thừa sai đang băng mình trên những miền đồi núi, rừng thiêng nước độc để gieo vãi Tin Mừng cho muôn dân. Họ có thể là các giáo sư hay các nhà giảng thuyết đang miệt mài ngày tháng trong các phòng ốc hay các giảng đường để tìm mọi cách loan truyền Tin Mừng Nước Chúa. Họ là những bạn trẻ đang hăng say dấn thân vào những công tác xã hội hay bác ái. Tất cả đều là những chiến sĩ can trường xông pha vào trận chiến chống lại bất công, áp bức, nghèo đói, bệnh tật. Mục tiêu lớn nhất đời họ là xây dựng hạnh phúc và tự do đích thực cho đồng loại. Thế giới hôm nay đang cần những người xây dựng một nền văn hóa sự sống, chống lại văn hóa sự chết. Văn hóa sự chết đã tạo nên một thế giới đầy “các trẻ em bị bạo lực, làm nhục và bỏ rơi, người nữ bị hãm hiếp và bóc lột, những người trẻ, người lớn và người già bị loại trừ, hàng hàng lớp lớp nhưng người bị đi đày và tị nạn, bạo lực và xung đột tại nhiều nơi trên thế giới” (Gioan Phaolô II, VietCatholic 27/12/2000). Khủng khiếp hơn nữa, “ngày nay, mỗi ngày hằng trăm ngàn trẻ em ở Mỹ, ở Việt Nam, ở Trung quốc, ở Âu châu và các nơi khác bị các loại luật pháp mỵ dân xúm lại bóp cổ, đục bể óc, đâm chết trong cung lòng người mẹ ‘bao la như biển Thái Bình’” (Nguyễn Việt Nam 24/12/2000). Trước sức mạnh thần chết đó, những chiến sĩ văn hóa sự sống làm sao đương đầu ? Nhưng cũng như Đức Giêsu, “ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1:5), các chiến sĩ đó vẫn mạnh mẽ lên đường. Họ đang tạo nên bức tranh tuyệt vời như Isaia vẫn mơ ước : “Đẹp thay trên đồi núi bước chân người loan báo Tin Mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ” (Is 52:7). Họ ra đi vì niềm tin tuyệt đối vào sức mạnh ánh sáng. Đức Giáo Hoàng mạnh mẽ khẳng quyết : “Dù cho bóng tối có xuất hiện dầy đặc như thế nào đi nữa, niềm hi vọng chúng ta về sự chiến thắng của Anh sáng đã xuất hiện trong đêm thánh này tại Bêlem còn mạnh mẽ hơn” (VietCatholic 27/12/2000). Anh sáng đó đã trở thành niềm hi vọng cho một nhân loại đang khao khát tự do và hoà bình. Dom. Đinh Viết Tiên op Trước Máng Cỏ Chúa Hài Nhi Giữa những ồn ào của đám đông, giữa những sôi nổi của thành công và ê chề của thất bại, xin trở về với cõi riêng bên Giêsu, để một mình ở đó, Trầm Lắng và Bình An Đang say sưa với bài thánh ca : Cao cung lên của cố nhạc sĩ Hoài Đức, một ca khúc vừa thánh thiêng, vừa êm đềm, nhất là với các phiên khúc đã dẫn mình chìm sâu trong thinh lặng và cầu nguyện : - Thôi hỡi trần gian im tiếng đi mà cung kính. Chúa Con sinh ra trong máng cỏ hang lừa. Tuy Chúa là vua, muôn nước suy phục tôn kính. Chúa bởi cõi trời sinh xuống trần đêm nay. - Thôi hỡi hồn tôi ghi nhớ trong lòng sâu thẳm. Chúa sinh đêm nay nên bé nhỏ khó hèn. Tôi quyết từ nay yêu Chúa trong tình đằm thắm. Muốn để đền bù lại cõi đời bạc đen. Trong hang đá : Maria lặng im, Giuse lặng im và Hài Nhi cũng lặng im. Tôi chợt nhớ lại. Không phải bây giờ, xưa cũng thế, trong hang Bêlem : Đức Giêsu ra đời, những người chăn chiên đến viếng thăm, tất cả đều không nói một lời (Lc 2,1-20). Trước huyền nhiệm tình yêu, chúng ta chỉ có cảm nghiệm trong thinh lặng. Thực ra biến cố “trong hang Bêlem”, tự nó, đã nói lên tất cả. Theo chân các mục đồng, những người được diễm phúc chiêm ngắm Chúa Hài Nhi trong đêm thánh, mỗi người chúng ta cũng được phúc cảm nghiệm về tình yêu Chúa. 1. Chiêm ngắm với lòng tin Sau khi được các Thiên Thần loan báo Tin Mừng trọng đại: Đấng Cứu Độ đã Giáng Sinh trong thành Đavít, “những người chăn chiên bảo nhau : Nào chúng ta sang Bêlem, để xem sự việc đã xảy ra. Họ đã hối hả ra đi, đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse cùng với Hài Nhi đặt trong máng cỏ” (Lc 2, 15 - 17) “Sự việc đã xảy ra”. Phải rồi, một sự kiện, một biến cố “đáng xem” luôn là một lời mời gọi tôi “đọc ra” ý nghĩa của nó. Sự việc vẫn là sự việc, biến cố vẫn là biến cố. Chỉ có thế. Nhưng nó “đã xảy ra”, hẳn nó phải có nguyên nhân và mục tiêu nào đó, phải mang một ý nghĩa nào đó. Muốn đọc ra ý nghĩa của nó, đòi tôi phải chiêm ngắm với lòng tin. Thánh Gioan trước ngôi mộ trống: “Ông đã thấy và ông đã tin” (Ga 20, 8) Tôi lặng đi vì “sự việc đã xảy ra”. Nếu như tôi không “đến mà xem” thì làm sao thấy, làm sao cảm nghiệm được sứ điệp Chúa muốn dạy tôi… Và tôi chợt hiểu, vẫn còn đó vô vàn vô số những “hang đá” trong đời thường. Vẫn những biến cố, những sự kiện mang ý nghã trọng đại của Noel, của mầu nhiệm Thiên Chúa lặng thầm. Chính trong bầu khí thánh thiêng, khung cảnh trầm mặc an bình, cùng với tâm hồn đơn sơ khiêm tốn, Chúa đã tỏ ý định của Người cho những tâm hồn bé mọn (Mt 11, 25 -27). Cha Timothy trong thư gửi anh chị em thuộc giai đoạn đào tạo sơ khởi đã khẳng định: thinh lặng là cốt lõi của linh đạo Đa Minh. Ngay cả lời nói hiệu lực nhất trong giây phút thánh thiêng, cái diệu cảm của chúng ta về tình yêu Chúa cũng chính là sự im lặng. Dường như trước huyền nhiệm tình yêu mọi ngôn từ đều có vẻ què quặt và vụng về…. Tôi chợt hiểu có những bài học, những sứ điệp không được viết bằng lời nhưng bằng hành động, chúng ta chỉ nhận ra bằng cảm nghiệm. Có những sự kiện, những nhân vật, tuy chẳng nói chẳng rằng, tuy lặng im vô hạn, nhưng lại nói lên tất cả. 2. Chia sẻ cảm nghiệm Họ đã chứng kiến sự việc xảy ra như được loan báo. Một Hài Nhi bọc tã nằm trong máng cỏ. “Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này” (Lc 2,17) “Điều đã được nói” : Hài Nhi ở đó, thật lặng thầm, chẳng nói chẳng rằng. Nhưng sự hiện diện “lặng thầm đó” lại là một thứ ngôn ngữ trác tuyệt. “Điều đã được nói về Hài Nhi” hay Hài Nhi “hiện diện như thế” trong dòng lịch sử nhân loại đã nói lên tất cả. Chính sự hiện diện lặng thầm lại là cách biểu lộ rõ hơn cả, đòi tôi phải có thái độ lắng nghe, phải trố mắt nhìn. “Họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này”. Nếu như không nhận ra, không thấy gì, làm sao họ có thể thuật lại. Sau khi đã “thấy thế”, người xem không thể không ngạc nhiên và không thể “lặng im” được. Phải kể lại, phải tường thuật, phải loan báo. Quả là một ngôn từ, một lời nói lôi cuốn khiến người nghe cảm thấy bức xúc và muốn kể lại. Nhiều bài giảng của tôi chỉ là một mớ kiến thức, một mớ ngôn ngữ sáo mòn, không có chút cảm nghiệm, không có chút lửa, không có chút nhiệt tâm nào đó, không có chất liệu tươi sống, những hương vị cuộc đời … Đó chỉ là sự sắp xếp các ý tưởng, các lối diễn tả, chứ không là chia sẻ cảm nghiệm… Tôi cũng chợt nhận ra những lần tôi đã “bỏ qua” những gì tôi đã được nghe, được biết mà không cảm thấy cần phải chia sẻ, phải “cho đi” sau khi đã nhận được. Hạnh phúc đâu chỉ của riêng tôi, niềm vui đâu chỉ mình tôi hưởng. Cũng thế, biết bao điều tôi đã đón nhận, rất thường không phải do tôi “có công”, thế mà …tôi lại “hưởng một mình”, thậm chí còn phủ nhận cả “ân nhân” đã lặng thầm “cho không biếu không”… Tình yêu của mẹ cha, sự chăm sóc của bạn bè, sự cộng tác nhiệt tình của các cộng sự viên, những ân nhân lặng thầm vô tên tuổi… Bao nhiêu thứ đang ngồn ngộn trong tâm hồn, mà tôi vẫn không có gì để nói. Lời chia sẻ của tôi phải là những gì đã được ươm mầm từ Lời Chúa, được chắt lọc từ cuộc sống, cưu mang trong suy tư và cầu nguyện. Khi chia sẻ là chia sẻ cảm nghiệm (nói đúng hơn kinh nghiệm gặp gỡ Chúa trong lòng tin) với người khác 3. Chìm sâu trong chiêm niệm Khi các mục đồng ra đi, thánh Luca ghi lại : “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy” (Lc 2,19). Kỷ niệm đó không chỉ là lần đầu, và đã có lần thứ hai trong biến cố ở lại Đền Thờ của Chúa Giêsu (Lc 2, 51). Và có lẽ không chỉ lần một lần hai, mà là tập quán “ghi nhớ và suy niệm” trong suốt cuộc đời của Mẹ. “Mọi kỷ niệm ấy”. Vâng, đúng thế, kỷ niệm nào chẳng để lại dấu ấn. Dấu ấn theo dòng thời gian cả trước lẫn sau. Maria đã chẳng phát biểu gì, mà chỉ “cất vào trong tim”, nơi thẳm sâu nhất của con người và cũng là nơi “lắng đọng” ý nghĩa thâm sâu của sự kiện, của biến cố đang diễn ra. “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy”. Thấy và thấm. Chìm sâu và lắng đọng để sự kiện hay biến cố mãi mãi gắn liền với cuộc đời, chi phối và ảnh hưởng cả cuộc đời. Tôi cũng chợt nhận ra, “sự kiện” mà tôi ngộ ra được ý nghĩa thâm sâu của nó. Thật lặng thầm và cô đọng, nhưng nó làm tôi nhớ và nhớ mãi. Biến cố ấy, sự kiện ấy phải đi vào cuộc đời tôi, suốt cả cuộc đời. Những trang nhật ký thiêng liêng, những biến cố đau thương, những kỷ niệm dấu ái, những suy nghĩ ngờ nghệch của cái thuở mới bước vào đời, “tình nhỏ làm sao quên”… Tuy nhiên, có những sự kiện, những biến cố ít nhiều có ảnh hưởng đến cuộc đời tôi mà tôi không “ghi” làm sao tôi “phát”, tôi không “gieo” làm sao tôi “gặt” được. Điều tôi đã thấy, đã nghe, đã lãnh nhận trong cuộc đời này, phải là một kỷ niệm không hề phai, không hề nhạt nhoà cho tôi mãi mãi. Có thể nói, một khi bỏ qua và phủ nhận nó, tôi cũng bỏ qua và phủ nhận chính tôi. Trước hang đá máng cỏ trong bầu khí thánh thiêng của sự thinh lặng, tôi thấy gần gũi và cảm mến Ngài. Ngài, tuy chẳng nói chẳng rằng, tuy lặng im vô hạn, nhưng lại nói lên tất cả. 4. Sứ điệp từ máng cỏ Chúa Hài Nhi Hang đá đã trở thành “lời mời gọi” cho tôi hôm nay và mãi mãi. Tôi phải đi viếng … và viếng mãi…. Bởi trong đời không bao giờ thiếu những hang đá, nơi chất chứa vô vàn vô khối những “lời” không thành tiếng như thế. Còn rất nhiều tâm hồn cao quý vẫn lặng thầm như : - Như tình yêu của mẹ âm thầm lặng lẽ, chắt chiu từng ngày, không quản một sương hai nắng hy sinh cho con cái. - Như những chị nữ tu vẫn âm thầm trong các bệnh viện, trại cùi, hay nơi các viện mồ côi… - Như những giáo viên miền núi lặng lẽ lội bộ đến lớp để trao tặng “cái chữ” cho các em dân tộc. - Như những người phu quét đường lặng lẽ làm sạch đẹp thành phố trong đêm…v.v.. Sứ điệp Giáng Sinh vẫn còn vang vọng nơi tầm hồn mỗi người : Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta. Chúa đã âm thầm vào trần gian trong cái đêm giá lạnh để chia sẻ với những hài nhi “sinh bờ đẻ bụi”, những hài nhi bị sát hại ngay từ trong bào thai, chưa được mở mắt chào đời. Chúa chấp nhận sinh ra khó nghèo để an ủi, sẻ chia với những mảnh đời bất hạnh, khổ đau trong vùng thiên tai, lũ lụt, nơi các cháu vô tội bị nhiễm HIV. Chúa Giáng Sinh trong điều kiện thiếu thốn cùng cực để những gia đình giàu có, thừa của biết san sẻ, biết cho đi để làm giàu cho sản gnhiệp thiêng liêng. Chúa từ trời cao xuống thế để sẻ chia kiếp người, và Cứu độ nhân loại lầm than. Ngài cũng muốn mời gọi tất cả chúng ta đang sống đời dâng hiến, hãy dám cho đi và dấn thân trong những vùng sâu vùng xa, những cứ điểm truyền giáo thiếu thốn mọi tiện nghi. Khi Mẹ đặt nằm xuống nắm rơm, Máng cỏ làm nôi cũng chẳng buồn. Chim trời cá nước Người nuôi sống, Giờ đây đây chút sữa đã là ngon. (Thánh thi Kinh Sáng, Lễ Giáng sinh) Lạy Chúa Hài Đồng, Chúa là Chúa cả trời đất, giờ đây mang hình hài một bé thơ yếu ớt, đặt nằm trong máng cỏ… Một dấu chỉ cho thấy một sự nghèo khó vô hạn, và khiêm hạ tuyệt mức của Thiên Chúa. Điều này trí con không hiểu nổi. Con chỉ còn biết cung kính tôn thờ mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa. Trong thinh lặng và tôn thờ, con đã nghiệm ra con đường Chúa đã chọn, con đường nghèo khó (Không phải chỉ trong biến cố Giáng Sinh, mà cả trong suốt 30 năm âm thầm lặng lẽ), Chúa đã dạy chúng con không phải bằng lời giảng dạy, nhưng bằng sự thinh lặng và gương mẫu. Đặc biệt Chúa dạy cho chúng con biết chúng con có thể thực hiện nhiều điều tốt lành, thậm chí rất tốt nữa cho người khác. Chúa muốn chúng con đừng quá chuộng hình thức, quá ồn ào ầm ĩ. Hãy lui vào thầm lặng và sống gương mẫu. Chúa đã dạy cho chúng con gương sống nghèo, gương sống tín thác nơi Cha, gương khiêm tốn, sống cầu nguyện, chìm sâu trong Cha. Lạy Chúa Hài Nhi, bài học âm thầm lặng lẽ của Chúa, con đã biết nhưng ít khi thi hành. Xin Chúa, Mẹ Thánh Ngài và Thánh Giuse giúp chúng con ơn sống khiêm nhường và tín thác. Đỗ Lực op Mùa Đông Năm Ấy (Lc 2:1-20) Trong cuộc tiếp kiến các giám mục Nhật bản ngày 17.12.2007 vừa qua, ÐGH Bênêđictô XVI nói : “Thế giới thực sự đang đói khát sứ điệp niềm hy vọng do Tin Mừng mang đến. Ngay cả trong các nước phát triển cao như quốc gia quý vị, nhiều người thấy rằng sự thành công về kinh tế và kỹ thuật tiên tiến tự nó không đủ để lấp đầy con tim nhân loại. Ai không biết Thiên Chúa, cuối cùng cũng không có niềm hy vọng, niềm hy vọng vĩ đại kéo dài suốt đời.” (1) ÐGH nói tiếp : chúng ta có thể vượt qua sự dối trá do văn hóa hiện đại quyến rũ tuổi trẻ vào con đường tuyệt vọng bằng niềm hy vọng do Ðức Kitô mang lại. Chính vì thiếu niềm hy vọng, nên nhiều bạn trẻ ngày nay chạy theo vật chất, theo những thứ có khả năng tạo ra ảo vọng. Thế giới thuộc về ai đem lại niềm hy vọng cho nhân loại. Còn ai đem lại niềm hy vọng bằng chính Ðức Giêsu, Ðấng đã sinh ra giữa cảnh băng giá và nghèo hèn. Chúa đã làm người để đem ơn giải thoát đến cho những nạn nhân của những cơ chế bất công xã hội và của những chủ nghĩa tự hào về niềm hy vọng con người có thể đem lại cho chính mình. Nhưng giữa lúc nhân loại, nhất là tuổi trẻ đang khao khát tìm kiếm niềm hy vọng, Giáo Hội có cách nào đáp ứng nhu cầu khẩn thiết đó của thời đại không? ÐÊM THÁNH VÔ CÙNG Ðêm thánh vô cùng không diễn ra chốn cao sang vô cùng, nhưng giữa nơi khốn cùng của kiếp người. Ai có thể tưởng tượng Con Thiên Chúa sinh giữa trần gian lại theo cung cách khiêm hạ đến thế?! Qua một vài dòng ngắn ngủi, thánh Luca cực tả cảnh nghèo hèn đơn bạc của Ðấng Cứu Thế : “Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.”(Lc 1:7) Nhưng không ai ngờ giữa chốn tối tăm hoang vắng ấy”một tin mừng trọng đại, một niềm vui cho toàn dân”(Lc 2:10) đang hình thành. Niềm vui ấy không dành cho những người sống trong cảnh “lầu son gác tía,” nhưng cho “những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật.”(Lc 2:8) Ðó là những người nghèo, nạn nhân của những cơ chế xã hội bất công. Cũng như Chúa, họ bị hất hủi và chèn ép bất công. Làm việc suốt đêm ngày cũng không có đủ miếng ăn. Nhưng chính họ mới là người được Thiên Chúa đoái thương. Tình thương Thiên Chúa vượt ngoài dự tưởng. Ðang canh giữ đoàn vật giữa canh khuya, họ bỗng thấy “sứ thần Chúa đứng bên và vinh quang của Chúa chiếu tỏa chung quanh, họ sợ hải kinh hoàng.”(Lc 2:9) Như bị nhấc bổng lên một thế giới xa lạ, họ choáng váng và vô cùng sợ hãi. Nhưng cũng chưa thấm vào đâu so với tin mừng họ nghe được từ miệng sứ thần : “Hôm nay, một Ðấng Cứu Ðộ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Ðavít.”(Lc 2:11) Ai có thể hiểu được tâm trạng những người chăn chiên lúc này?! Niềm hạnh phúc lên tới tột cùng. Họ không ngờ mình lại được tuyển chọn để chào mừng Ðấng Cứu Thế đến chia sẻ thân phận nghèo hèn của mình. Không có lúc nào sung sướng hơn khi nghe thấy cả đạo binh thiên thần hát vang trời sứ điệp hòa bình : "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương."(Lc 2:14) Sứ điệp ấy vẫn còn vang vọng mãi trên không trung. Nhưng chỉ những tâm hồn đơn sơ, nghèo hèn mới có thể lắng nghe mà thôi. Bởi thế, cuộc sống càng xô bồ, phức tạp, con người càng không thể nghe và hiểu nổi sứ điệp đó. Nghe sứ điệp hòa bình trong khung cảnh thanh tĩnh tuyệt vời, các người chăn chiên như lạc vào tiên cảnh. Hạnh phúc tràn ngập tâm hồn và thân xác, họ đi tìm Ðấng Kitô theo chỉ dẫn của sứ thần. Những dấu chỉ đó thật tầm thường, đúng hơn, dưới mức tầm thường nữa. Chính vì thế, họ như đi tìm một cái gì thật giống mình mà cũng thật khác mình. Chúa đã hòa đồng đến nỗi có thể gần gũi cả những người tầm thường nhất, để họ có thể bạo dạn đụng chạm đến chiều kích vô cùng của Thiên Chúa. Tại sao Chúa lại chọn một chiều kích giới hạn nhất của kiếp người để rao giảng sứ điệp Tin Mừng giải thoát? Phải chăng Tin Mừng Bình An chỉ được rao giảng trong một khung cảnh đơn sơ, khó nghèo? SỨ ÐIỆP HÒA BÌNH Sứ điệp hòa bình do các thiên thần gởi đến cho những con người đang sống trong cảnh nghèo hèn vì những cơ chế bất công. Phải chăng Chúa muốn kéo mọi người chú ý tới những người cần được cứu nhất trên trần gian. Người muốn phơi bày tất cả bộ mặt thật của chế độ bất công đã áp bức con người. Bao lâu còn bất công, không thể có hòa bình. Quả thật, “hòa bình là hoa trái của công lý.” (2) Công lý phát xuất từ Thiên Chúa. Bởi đó, chỉ Thiên Chúa mới có thể dẹp tan những cơ chế bất công ấy và đem lại hòa bình cho nhân loại mà thôi, vì Người là Ðấng Công Chính. Ngày 19 tháng 12, năm 2007, ÐGH Bênêđictô XVI phát biểu : “Ngày nay chúng ta là các tín hữu thật sự tin vào Đấng Thẩm Phán; chúng ta mong chờ công lý. Chúng ta thấy quá nhiều bất công trên thế giới, … và chúng ta mong chờ công lý…. Chúng ta hy vọng có một vị nào đó đến và có thể đem lại công lý. Trong phạm vi này chúng ta cầu mong Đức Chúa Giêsu Kitô sẽ đến như Vị Thẩm Phán…. Chúa biết phải xuống thế gian thế nào để tạo ra công lý. “Mong đợi công lý theo nghĩa của Kitô giáo có ngĩa là … chúng ta bắt đầu sống dưới đôi mắt Vị Thẩm Phán,… tạo dựng công lý ngay trong đời sống chúng ta…. Bằng cách này chúng ta có thể mở thế giới ra đón chào Chúa Con đến và sửa soạn tâm hồn chúng ta để đón Chúa là Đấng phải đến. “Tại Bê Lem, Ánh Sáng chỉ cho chúng ta Con Đường đưa đền sự sung mãn về nhân tính của chúng ta. Nếu không nhận ra Thiên Chúa đã làm người, chúng ta cử hành Lễ Sinh Nhật có ý nghĩa gì không? Là Kitô hữu,chúng ta phải xác tín sâu xa về chân lý Chúa Kitô giáng sinh, để trờ thành nhân chứng trước mặt mọi người về hồng ân độc nhất đem lại giàu sang không những cho chúng ta mà cho mọi người.” (3) Khi Chúa Giêsu giáng sinh giữa khung cảnh nghèo hèn, Thiên Chúa đã kéo hai đối cực sát lại nhau, không phải giữa Tạo hóa và tạo vật mà thôi, nhưng giữa Ðấng Công Chính và sự bất chính nữa. Khi đã nhìn ra sự khác biệt quá xa như thế, người ta sẽ dễ dàng lựa chọn và tìm ra con đường giải thoát khỏi sự bất chính, bất công. “Sự nghèo đói đặt ra một vấn đề nghiêm trọng về công lý. Trong nhiều hình thức và hiệu quả khác nhau, đặc điểm của nó là sự phát triển bất bình đẳng. Nó không nhìn nhận “mọi người có quyền bình đẳng ngồi chung một bàn. Sống nghèo đói như thế, không thể có một nền nhân bản đầy đủ.” (4) Khi xuống thế làm người, Chúa muốn đem đến cho nhân loại một chiều kích sung mãn về nhân tính. Chiều kích này thực sự chỉ nảy nở trong vương quốc Thiên Sai, có Chúa Giêsu “là hòa bình của chúng ta.” (Ep 2:14) Hòa bình như thế không còn nằm trên bình diện xã hội hay chính trị, nhưng thực sự có một chiều kích siêu nhiên và có tính cách quyết định toàn thể vận mệnh cuộc đời. Thực vậy, cùng với công lý, hòa bình là một trong bảy hoa trái của Chúa Thánh Thần : “Vì Nước Thiên Chúa … là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.”(Rm 14:7; xc Gl 5:22) Chúa đến và hiện diện giữa trần gian để cho mọi người thấy nguồn an bình đã thực sự có mặt trên trái đất. Ðó là một nền hòa bình mới, hoàn toàn khác biệt với hòa bình do thế gian hứa hẹn. Ngày Chúa giáng trần và ngày long trọng vào thành thánh Giêrusalem, khúc ca hòa bình đã trổi lên. Một lần trên trời vọng xuống. Một lần dưới đất cất vang lên. Chỉ có hòa bình do Con Chúa mang đến trần gian mới thật là một nền hòa bình cao quý, vì đem lại ý nghĩa lớn lao làm giàu cho cuộc sống con người. Hòa bình kêu gọi con người giữ lời thề và mau mắn đáp lại lời chân lý, công lý và tình yêu mời gọi. Trái với các tiên tri giả, người có tâm hồn cao quý không lùi bước trước những hy sinh để tiến đến đỉnh cao hòa bình. Bởi đó, hòa bình này đang hiện diện trong và trên chúng ta. Ðó là một nền hòa bình mạnh hơn những lực lượng bạo loạn đang khuấy động trong tâm hồn và thế giới hôm nay. Ðó là một nền hòa bình phong phú, làm cho chúng ta luôn kiên cường và khích lệ cho bao nhiêu nỗ lực hôm nay. Kinh thánh nói đến một nền hòa bình chan chứa những điều may lành và gồm mọi nhân đức, một nền hòa bình thành toàn và đem lại hạnh phúc cho muôn người. Chỉ có hòa bình các thiên thần đã hứa trong đêm Giáng sinh mới đem lại cho nhân loại tất cả chiều kích phong phú và viên mãn nhất cho hạnh phúc nhân loại. (5) TỪ HANG BÊLEM ÐẾN CÁNH ÐỒNG TRUYỀN GIÁO Nhiều người vẫn tự hỏi : tại sao Chúa lại chọn sinh ra giữa đêm đen? Giữa cảnh nghèo nàn và giá buốt Chúa đã mạc khải tất cả sứ mệnh giải thoát nhân loại. Phải chăng đó là khung cảnh thuận tiện để loan truyền ơn cứu độ giữa muôn dân? Từ hang Bêlem tới cánh đồng truyền giáo, con đường có xa lắm không? Giáo hội có thể học được bài học nào về truyền giáo trong đêm Giáng Sinh? Ðêm Giáng Sinh đã tỏa sáng tất cả ý nghĩa và giá trị của công cuộc cứu độ của Chúa và việc truyền giáo của Giáo hội trên trần gian. Chúa hoàn toàn không bị đóng khung trong những truyền thống hay bốn bức tường nhà thờ và những cuốn sách dầy cộm trong thư viện. Từ cảnh tượng, nhân vật đến nội dung sứ điệp đều hoàn toàn thoát khỏi những khuôn khổ nhất định của mọi định chế xã hội, tôn giáo và văn hóa. Ðúng hơn, chính vì muốn mạc khải một con đường giải thoát mà Chúa đã không ngần ngại sinh ra trong kiếp nghèo hèn, lầm than và bị hất hủi. Chúa chấp nhận tất cả để giảỉ thoát tất cả. Thế nhưng, càng về sau càng thấy cơ chế thành hình đã đóng khung Tin Mừng trong những định chế cứng ngắc. Chính vì thế, nhiều lúc Tin Mừng như mất sức sống. Cần phải tìm về hang Bêlem để tìm hứng khởi cho những bước chân đang trải dài trên cánh đồng truyền giáo. Không nắm vững tinh thần tự do của Ðêm Giáng Sinh trong hang đá Bêlem, không thể thành công trên cánh đồng truyền giáo. Từ trời cao thẳm Chúa đã nhập thể và nhập thế. Chúa đã đi những bước thật mạnh dạn. Chúa đã dấn thân vào đời để ôm lấy tất cả thực tế của nhân loại. Không một chút rụt rè. Không một tiếng thở than. Chúa thực sự liên kết với nhân loại một cách sâu đậm và mãnh liệt nhất. Chúa nhập cuộc với những người bị gạt ra ngoài lề xã hội, vì chính Chúa đã không kiếm được quán trọ để sinh ra. Chúa đã đứng về phía những người kém may mắn nhất, bởi vì Người đã sinh ra trong một máng cỏ và giữa chiên bò. Từ giữa triều thần thánh, Chúa đã trở thành một kẻ vô danh tiểu tốt giữa những người chăn chiên màn trời chiếu đất. Ðó là những người bạn đồng hành với Chúa và là những người rao giảng Tin Mừng đầu tiên của Chúa (x. Mt 2:20). Hình ảnh người chăn chiên trở thành khuôn mẫu lý tưởng, đến nỗi Chúa đã mượn để diễn tả về chính mình : “Thày là Mục tử nhân lành.” (Ga 10:11) Từ Cựu ước, mục tử là hình ảnh quá quen thuộc để nói về Thiên Chúa. Chính vì thế, Chúa đã chọn sinh ra giữa các người chăn chiên để chiếu sáng lên hình ảnh tuyệt vời của Mục Tử cao cả đích thật. Người cũng muốn mạc khải về cảnh bầy chiên quấn quít bên mục tử để mọi người cảm thấy tình thương của mục tử đối với bầy chiên lớn lao và sâu đậm tới mức nào. Không có một ngăn cách hay một thứ biên giới nào khiến mục tử và chiên xa lạ nhau. Tình thương sâu đậm đến nỗi mục tử dám liều chết vì đàn chiên. Không có tình yêu đó, cánh đồng truyền giáo sẽ hoàn toàn xa lạ và khác biệt với hang đá Bêlem. Sinh ra giữa hang bò lừa , Mục tử nhân lành thực sự đã hòa chung nhịp thở với đàn chiên. Không những mục tử đủ sức bảo vệ đàn chiên, nhưng còn đi trước để dẫn đường chỉ lối cho chúng hướng về tương lai. Vai trò lãnh đạo không làm cho mục tử trở thành lạnh lùng. Trái lại, đàn chiên rất quen thuộc tiếng mục tử và đi theo sự dẫn dắt của mục tử. Tiếng mục tử quen thuộc vì nội dung là sứ điệp Tin Mừng. Sứ điệp Tin Mừng đem lại ơn giải thoát và sự sống đích thực. Nói khác, sứ điệp đó là chân lý do Ðấng Công Chính đem xuống trần gian. Công lý đã hiện thân nơi con người Ðức Giêsu Kitô. Trọn vẹn sứ điệp Tin Mừng đó, Mục tử nhân lành đã ủy thác cho Giáo Hội. “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo, vì chính Giáo Hội bắt nguồn từ sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần theo ý định của Thiên Chúa Cha.” (6) Trong hoàn cảnh hiện tại, Giáo hội không thể không biết mình “liên kết thực sự và thân mật với nhân loại và lịch sử thế giới” (7) như vị Mục Tử nhân lành. Nếu muốn thành công trên cánh đồng truyền giáo, Giáo Hội cần phải nhận rõ sứ điệp Tin Mừng và toàn cảnh hang đá Bêlem đều nói lên một điều duy nhất : công lý là danh hiệu mới của hòa bình. Tóm lại, nơi hang Belem, niềm hy vọng là Chúa Giêsu Kitô đã giáng sinh. Nơi đây, “hòa bình công lý đã giao duyên.” (Tv 84:11) Sứ điệp hòa bình cũng là sức mạnh cứu độ toàn thể nhân loại. Sứ điệp đó đang được rao giảng khắp nơi qua nẻo đường công lý và tình yêu.. Lạy Chúa, xin cho chúng con cảm nghiệm tình thương Chúa trong đêm Giáng Sinh. Xin cho Giáo Hội Chúa dấn thân hơn nữa để Tin Mừng giải thoát nhân loại khỏi mọi thứ cơ chế bất công. Amen. đỗ lực - Giáng Sinh 2007 1. http://www.zenit.org/article-21321?l=english 2. Piô XII, “opus justitiae pax.” 3. http://www.conggiaovietnam.net/tacgia/PhamXuanKhoi/legiangsinhla....htm 4. Tóm Lược Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội, 449. 5. x. Pinckaers, O.P., S. The Pursuit of Happiness - God's way – Living the Beatitudes 1998:156-157. 6. Ad Gentes, 2. 7. Gaudium et Spes, 1026. Đa minh Nguyễn Ngọc Cảnh OP Một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta Lc 2:1-14 Đêm mùa đông năm ấy, trên cánh đồng Be lem con Thiên Chúa đã được hạ sinh cho nhân loại. Tin vui này được Thiên Thần báo cho các mục đồng: “Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là niềm vui cho toàn dân. Hôm nay, Đấng Cứu độ đã sinh ra cho anh em, người là đấng Ki tô, là Đức Chúa” Lc ( 2,11) Niềm vui này không những của toàn nhân loại mà còn là của toàn thiên quốc. Vì vậy, các thiên sứ tung hô ca tụng Thiên Chúa: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” Trong đêm giá lạnh này, “ khi vạn vật chìm sâu trong thinh lặng/ Lúc đêm trường chừng như điểm canh ba/ Thì từ trời cao thẳm, lời toàn năng của Ngài/ đã rời bỏ ngôi báu ví tựa người chiến sĩ can trường” Kn(18,4-5). Người đã xuống trần gian để sống với loài người lầm than. Vì vậy mà “ thiên hạ sẽ gọi người là vua Thái Bình”. Người là đấng tạo tác muôn loài vậy mà Ngài đã xé trời xuống thế để tìm lại con người lầm lạc. Người xuống để đồng hành và chia sẻ nỗi khổ đau của con người. Vì vậy mà Ngài chấp nhận sinh ra trong cảnh cơ hàn, không nhà cửa , không nhà trọ nào tiếp rước… và hương thơm đầu đời Ngài thưởng thức là mùi phân bò lừa. Người đã đơn sơ giáng trần nên chỉ có những người có tấm lòng khiêm hạ như các chú mục đồng mới có thể cảm nghiệm được và tôn vinh Thiên Chúa. Loài người quá nhỏ bé và yếu hèn đã không lên được với Thiên Chúa thì Thiên Chúa đã xuống với nhân loại. Thiên Chúa đã nối liền hữu hạn và vô hạn, đã kê đất ngang với trời để Ngài có thể tâm sự và đồng hành với tất cả chúng ta. Con Thiên Chúa giáng thế để vác loài người trên vai đưa loài người chúng ta về cùng Chúa Cha kính yêu đang chờ đợi mỏi mòn ở quê nhà. Hài nhi Giê su giáng sinh nhưng mấy ai nhận ra người. Năm xưa chỉ có những tấm lòng ngay thẳng nhận ra Chúa đến. Những người quá đam mê vật chất và quyền lực như chủ quán và Vua Hê rô đê không những xua đuổi Chúa mà còn tìm cách giết hại Ngài. Ngày nay, con người cũng chẳng khác thời Chúa giáng sinh, vẫn yếu đuối, u tối, không nhận ra Chúa đến gõ cửa nhà mình. Chúa ban cho mỗi người một mùa vọng để nhìn lại mình. Giáo hội kêu mời mọi người chuẩn bị tâm hồn bằng cách “mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng rồi hết người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” Lc (3,5) Thật vậy, ơn cứu độ của Thiên Chúa đến với tâm hồn mỗi người khi ta để cho Ngài sinh ra và lớn lên trong tâm hồn. Như vậy, ta phải để cho lời Ngài thấm nhập vào cuộc sống bằng những hành động cụ thể. Hôm nay Chúa đang ngoài cửa để chờ chúng ta mời Ngài vào. Chúng ta hãy chuẩn bị bữa tiệc thịnh soạn bằng những cử chỉ đẹp, những hành động thể hiện sự yêu thương với mọi người. Để khi đón tiếp Ngài, chúng ta có một đêm hội hoa đăng tưng bừng ánh sáng tình yêu. Chúng con đang hưởng một không khí giáng sinh tràn ngập khắp nơi. Trời mùa đông se lạnh nhưng chúng con đang cảm nhận được hơi ấm tình yêu của Chúa đã và đang tuôn đổ trên mỗi người chúng con. Xin Chúa hài đồng ngự vào tâm hồn chúng con để hơi ấm tình yêu Chúa Ba Ngôi đốt lên lòng ngọn lửa yêu thương của chúng con. Để chúng con biết đem chia sẻ hơi ấm tình yêu mình nhận được đến với những người đang cần sưởi ấm trong thế giới hôm nay./. Comments are closed.
|
CategoriesAll Bai Viet Hay Bidong Cau Nguyen Chua Chua Giesu Chuyen Ke Chuyen La Computer Con Nguoi Danh Ngon Dao Dien Thoai Doi Song Dong Vat Download Youtube Duc Giao Hoang Duc Kito Duc Me Gia Dinh Giai Tri Giang Sinh Giao Duc Hanh Phuc Hoi Dap Hon Nhan Inspiration Internet Ky Nghe Ky Niem Bidong Linh Thieng Loi Chua Meo Vat Nghe Thuat Ngoai Ngu Nhu Lieu On Goi Phuc Sinh Phu Nu Sach Sach Dao Software Suc Khoe Suy Niem Tam Linh Tang Le Thanh Ca Thanh Nhan Thien Chua Thien Chua Thien Nhien Tho Tho Bidong Tho Dao Tho On Goi Tho Ty Nan Tho Ve Me Tho Vui Tin Cong Giao Tinh Ban Tinh Cam Tinh Yeu Tin Tuc Tre Em Ty Nan Vatican Vui Cuoi Vuot Bien Xa Hoi Xuan Yeu Thuong Archives
May 2016
Thư Giãn |